Từ xưa tới nay, mọi người vẫn tôn Khương Thượng là một bậc thần thánh, thậm chí, còn đặt ra câu chuyện ông đã “thay trời để phong thần”, để lấy đó ký thác sự tôn sùng và ngưỡng mộ của mình đối với ông. Kể từ triều nhà Đường trở về sau, Khương Thượng được truy phong “Võ Vương”, đứng ngang hàng với Khổng Tử, người được phong “Văn Tuyên Vương”, và trở thành hai thần tượng một văn một võ trong lịch sử cổ đại của Trung Quốc. Nhưng, Khương Thượng trong lịch sử là một con người như thế nào?
Phải chăng là người có thể đằng vân giá vũ, hô phong hoán võ, và đoán biết trước mọi việc sắp xảy ra như trong truyền thuyết đã nói? Cho dù sử liệu không đầy đủ, khiến hiện nay chúng tôi không có cách gì để tìm hiểu thật tường tận về cuộc sống của Khương Thượng, nhưng với tư liệu hiện có, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy được một phần nào về tư tưởng trác tuyệt và tài hoa siêu nhân của Khương Thượng. Ông quả không hổ danh là vị “Tỵ tổ khai sơn” của các nhà mưu lược Trung Quốc.
Mục lục
1. Sinh Vào Thời Loạn
Cuối triều nhà Thương, tại Doanh Khưu (nay là địa phương nằm về phía đông Tri Bác, thuộc tỉnh Sơn Đông), có một bộ tộc Đông Di quần cư ở đấy. Người thủ lĩnh của bộ tộc này họ Khương, tên Thượng, tự Tử Nha, tục gọi Khương Thái Công.
Lúc tuổi trẻ, Khương Thượng là người khỏe mạnh, thông minh, học giỏi lại rất yêu binh pháp. Lúc bấy giờ là cuối đời nhà Thương. Ông vua cuối cùng của triều đại này là Trụ Vương, hết sức tàn bạo, suốt ngày chỉ biết rượu chè và tìm mọi thú vui, phung phí tiền bạc như rơm rác. Để thỏa mãn cuộc sống xa hoa và hoang dâm trụy lạc, Trụ Vương đã sử dụng hằng vạn công thợ xây cất “Lộc Đài” dài ba dặm, cao hằng nghìn xích, tại Bồi đô Triều Ca (nay là Kỳ Huyện, thuộc tỉnh Hà Nam) để làm nơi vui chơi riêng cho mình.
Trụ Vương còn cho đào một cái ao vuông trong khu vực “Lộc Đài”, dưới ao đo đầy rượu ngon, gọi là “Tửu Trì”. Nơi khu rừng bên cạnh Tửu Trì, Trụ Vương cho treo rất nhiều thịt, gọi là “Nhục Lâm”, có mục đích làm cho người phi tần xinh đẹp của mình là Đắc Kỷ được vui. Nhưng sau khi mọi việc đã hoàn thành mà Đắc Kỷ vẫn không nở một nụ cười. Nhà vua bèn ra lệnh cho rất nhiều nam nữ, cởi bỏ hết y phục, rồi rượt đuổi nhau đùa giỡn dưới Tửu Trì để làm trò cười cho Đắc Kỷ.
Trong khi Trụ Vương ngày đêm lo yến ẩm, hoang dâm vô độ, thì đông đảo những người nô lệ và bình dân áo không đủ mặc, cơm không đủ ăn. Để trấn áp những cuộc nổi dậy chống đối của nô lệ và bình dân, đồng thời, cũng để trừng trị những vị đại thần dám chống đối trước những thú vui của Trụ Vương, ông ta ngoài những hình phạt sẵn có trong ngũ hình như Kình (tội xâm mặt), Nhị (tội cắt mũi), Nguyệt (tội chặt chân), Cung (tội thiến), Tịch (tội tử hình), Trụ Vương còn bày ra những hình phạt tàn khốc mới, như cho thợ làm một ống đồng rỗng ruột, bên trong đốt lửa, bắt các “phạm nhân” cởi bỏ hết y phục, rồi trói vào trụ đồng nóng bỏng đó để giết chết, gọi là “Bào Lạc”.
Vì không thể chịu đựng được những bạo hành ngang ngược của Trụ Vương, đông đảo những người nô lệ và bình dân đã nổi dậy chống đối. Nhưng, vì lực lượng giữa đôi bên chênh lệch quá xa, tất cả những cuộc nổi dậy đều bị quân đội của Trụ Vương đàn áp thẳng tay và đẫm máu.
Cùng lúc đó, Trụ Vương cũng tiến hành một cuộc chinh phạt đối với bộ tộc Đông Di, bị xem là không phục tùng “vương mệnh”. Bộ tộc Đông Di được Khương Thượng, vị thủ lãnh của bộ tộc Lử Thị kết hợp với các họ Ngư, họ Tang, họ Lâm, họ Lang, họ Điền, họ Loan, họ Khởi Lương, họ Bạc Cô, đứng lên chống lại quân đội của Trụ Vương một cách ngoan cường.
Nhưng dù Khương Thượng là người túc trí đa mưu, dũng cảm phi thường, nhưng do thế cô sức yếu, đã bị quân đội của Trụ Vương trấn áp một cách tàn khốc. Căn cứ địa của Lữ Thị là Doanh Khưu, bị Trụ Vương phóng hỏa thiêu hủy thành bình địa. Khương Thượng nhờ có võ công cao cường lại rất dũng mãnh, nên đã mở con đường máu thoát ra khỏi vòng vây đông đến mười vạn quân của Trụ Vương. Sau mấy tháng lẩn trốn, rốt cục Khương Thượng đã lưu lạc đến Triều Ca, và lấy nghề mổ bò để sinh sống.
2. Những Ngày ở Triều Ca
Triều Ca là Bồi đô của triều nhà Thương. Ở đây, Khương Thượng gặp được một người là Lâm Hổ, vị tộc trưởng họ Lâm trong nhóm chín họ đã từng liên chính chống triều đình nhà Thương trước kia. Lâm Hổ trong trận đánh với quân nhà Thương bị bắt sống, nhưng giữa đường ông trốn thoát, tìm tới Triều Ca mai danh ẩn tích, sống nhờ vào người bà con. Người bà con này làm quan trong triều đình, đã đứng ra mở một ngôi khách điếm giúp cho Lâm Hổ. Hằng ngày khách qua đường đến ở trọ rất đông, việc làm ăn cũng khấm khá.
Lâm Hổ nghe Khương Tử Nha kể việc mình đã lưu lạc ở bên ngoài suốt những năm qua, không khỏi suýt xoa đồng tình. Hai người nhớ lại tình trạng cùng liên minh giữa chín họ để chống lại triều đình nhà Thương trước đây, cũng như hoàn cảnh trước mặt hiện giờ, đều cảm thấy bàng hoàng như chuyện xảy ra kiếp trước. Lâm Hổ nói:
– Nay hiền điệt đã tới đây rồi, thì đừng bận tâm tới chuyện đời sống nữa. Tất cả đều do tôi lo liệu. Hễ tôi ăn gì thì chú ăn nấy thôi.
Khương Tử Nha biết Lâm Hổ là người rất hào phóng, bèn nói :
– Thưa thúc phụ, tôi được gặp chú ở tại Triều Ca này, thật hết sức vui mừng. Tôi tạm thời xin được ở tạm trong khách điếm của chú. Nhưng tất nhiên phải tìm một việc buôn bán nhỏ gì đó để làm, chứ không thể ngồi không để chú nuôi.
Lâm Hổ hỏi :
– Hiền điệt định buôn bán gì ? Khương Tử Nha đáp :
– Những công việc phức tạp thì cháu không thể làm, vậy thì đi bán bột mì cũng được. Hằng ngày đến lò xay bột mì mua mấy túi bột, rồi gánh ra phố rao bán lẻ. Chỉ cần tìm được một ít tiền lời để nuôi sống là tốt rồi. Lâm Hổ thấy Khương Tử Nha đã quyết tâm, bèn nói :
– Được, bột mì sẽ do chú mua cho, còn cháu mua thêm một bộ gióng gánh, rồi gánh ra phố bán thử. Khi nào nghề này không làm được thì sẽ tính tới nữa.
Lâm Hổ thay Khương Tử Nha lo liệu mọi việc xong. Đến ngày hôm sau, Khương Tử Nha bèn gánh một gánh bột mì rao bán lẻ. Ông đi từ chợ phía Đông sang chợ phía Tây, từ đường phía Bắc đến đường phía Nam, nhưng không thấy ma nào hỏi mua cả. Đến lúc mặt trời sắp lặn xuống núi, ông bèn bước những bước chân nặng nề gánh bột mì trở về khách điếm của Lâm Hổ. Thấy vậy, Lâm Hổ lên tiếng an ủi.
– Này hiền điệt đừng lo lắng quá, vạn sự khởi đầu nan đấy mà. Ăn cơm xong hãy đi nghỉ ngơi, ngày mai lại gánh ra phố bán tiếp.
Khương Tử Nha biết mình quá xui xẻo, nên cũng. không nói gì nhiều, chỉ buồn bã đi ăn cơm rồi trùm mền lại ngủ một giấc.
Sáng sớm hôm sau, Khương Tử Nha lại gánh một gánh bột mì đi ra phố rao bán. Nhưng ông đi suốt một ngày, mà vẫn không bán được một lạng bột nào cả. Kịp khi trời sắp hoàng hôn, ông buồn bã gánh gánh bột mì đến dưới gốc cây cổ thụ ngồi xuống để nghỉ chân.
Vừa lúc đó, bỗng nghe từ xa có tiếng xa mã chạy đến, rồi trông thấy từ phía
Đông có một cỗ chiến xa do bốn con ngựa kéo chạy tới như bay. Trên xe không ai cầm cương cả. Khương Tử Nha thấy vậy hết sức hốt hoảng, vội vàng nép vào lề đường để tránh. Nhưng không còn kịp nữa cỗ xe vượt qua như gió hốt, bánh xe đã cán lên gánh bột mì của ông. Tức thì, bột mì liền bị sức gió của cỗ xe hốt bay đầy đất. Riêng Khương Tử Nha thì bị cỗ xa hất ngã bên vệ đường, nằm bất tỉnh không còn dậy nổi. Kịp khi ông cố gắng bò dậy, thì cỗ xe đã chạy đi mất hút từ lâu, chỉ còn lại gánh bột mì của ông đang nằm lăn lóc trên mặt đất, chung quanh đó bột mì đổ tung tóe. Khương Tử Nha hết sức đau đớn, to tiếng than :
– Hỡi trời xanh ơi ! Chả lẽ ông muốn dồn tôi vào con đường chết hay sao? – Dứt lời, ông té quỵ xuống đất bất tỉnh.
Đến nửa đêm, những người làm công cho Lâm Hổ cùng đốt đèn đi khắp tứ phía để tìm kiếm Khương Tử Nha, và họ đã phát hiện ông đang nằm bất tỉnh dưới gốc cây cổ thụ, bèn xúm lại khiêng ông về khách điếm. Sau mấy hôm nằm nghỉ dưỡng bệnh, Khương Tử Nha mới dần dần bình phục trở lại.
Lúc bấy giờ, tại Đông Thị của Triều Ca giá thịt heo mỗi ngày một tăng vọt. Có nhiều người đi xuống các địa phương mua heo sống mang về để bán, lời được rất nhiều tiền. Lâm Hổ sau khi biết tin này, bèn báo lại cho Khương Tử Nha biết, và cho ông mượn một số bạc làm vốn để đi buôn heo. Khương Tử Nha hết sức vui mừng, bèn xuống tận thôn quê mua hai mươi con heo sống, đi bất kể ngày đêm, mang trở về Triều Ca để bán lại. Nhưng khi ông tới Đông Thị, thì tất cả heo sống không ai hỏi mua nữa. Vì gần đây heo bị bệnh dịch, người trong thành không ai dám mua thịt heo để dùng. Do vậy, heo sống không bán được. Riêng hai mươi con heo của Khương Tử Nha, chỉ vài ba mươi hôm sau chúng đều lây bệnh dịch, chỉ trong vòng hai ba hôm đã chết sạch tất cả.
Sau nhiều phen làm ăn thất bại, Khương Tử Nha buồn khổ vô cùng. Ông lại ngã bệnh, nằm trên giường không muốn ăn uống chi cả. Suốt ngày ông chỉ đưa đôi mắt nhìn đăm đăm lên trần nhà. Cũng may có Lâm Hổ cho người ở của mình ngày đêm lo chăm sóc, còn rước cả thầy thuốc tới để bốc thuốc chữa bệnh. Riêng Lâm Hổ cũng đích thân đến khuyên lơn an ủi. Nhờ vậy, một tháng sau Khương Tử Nha mới lần lần bình phục.
Một hôm trời trong gió mát, Khương Tử Nha thấy nằm mãi trong khách điếm cũng buồn, nên ra ngoài để tản bộ. Khi ông đi đến một lò mổ bò, thấy trước cửa có dán một tấm giấy, cho biết hiện lò mổ đang cần một tay đồ tể, lương tháng là mười lạng bạc trắng, nếu ai muốn làm thì có thể đến thử việc vào ngày hôm sau.
Khương Tử Nha trở về khách điếm, không đem việc này nói lại cho Lâm Hổ biết. Sáng sớm hôm sau, ông lặng lẽ đi thẳng đến lò mổ bò. Người chủ lò mổ liền trao cho mỗi người ứng thí một con bò sống, một con dao, bảo họ tự chọc tiết làm thịt con bò để mình quan sát. Năm người thợ mổ bò đến dự tuyển, trước tiên dùng thừng trói bốn chân con bò lại, rồi mới quật nó ngã xuống đất, chọc tiết, mổ thịt. Riêng Khương Tử Nha không cần trói bốn chân của con bò, mà dùng hai tay nắm lấy sừng bò quật ngang cho con bò té xuống đất. Cùng lúc, ông đã nhanh nhẹn dùng con dao cầm sẵn trong tay, đâm thẳng vào tim con bò khiến nó chết tốt không kịp giãy giụa.
Người chủ lò mổ bò nhìn thấy hành động gọn gẩy, nhanh nhẹn của Khương Tử Nha thì hết sức vui mừng, bèn tuyển dụng ông trong số sáu người tới ứng thí.
Thì ra, thời còn trẻ tuổi, Khương Tử Nha rất thích đi săn bắn, và thường giết chết được cả cọp, beo, gấu, bằng hai tay không với ngón đòn như vừa rồi. Như vậy, nghề mổ bò đúng là nghề sở trường của ông.
Trước đây, lò mổ bò cứ mỗi hôm giết mười lăm con bò, và phải dùng hai thanh niên lực lưỡng làm trong một ngày mới xong việc. Nhưng hôm nay một mình Khương Tử Nha, cũng mổ với số lượng bò đó, mà chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ là xong tất cả. Người chủ lò mổ thấy thế, bèn tăng thêm cho ông mỗi tháng năm lạng bạc trắng nữa. Kể từ đó, đời sống của Khương Tử Nha tạm xem như đã ổn định.
Sau khi Trụ Vương trấn áp được những cuộc tuổi loạn trong nước, cũng như bình định được sự phản kháng của bộ tộc Đông Di, nhà vua hết sức vui mừng, cho rằng từ nay về sau không còn ai dám chống đối mình nữa, bèn xuống lệnh tiếp tục xây dựng “Lộc Đài”.
Viên đại thần chịu trách nhiệm xây dựng, thường gọi Khương Tử Nha tới nhà riêng của ông ta để mổ bò, nên biết tài mổ bò của Khương Tử Nha rất giỏi. Do vậy, ông ta bèn gọi Khương Tử Nha đến chuyên trách việc mổ bò, mổ dê, để cung cấp thịt cho thợ thuyền dùng.
Khương Tử Nha lo việc mổ bò, mổ dê cho thợ xây dựng “Lộc Đài” suốt bảy năm. Ngôi Lộc Đài này cao hằng trăm trượng, chung quanh được trang trí ngọc ngà, châu báu, lóng lánh huy hoàng. Đến ngày khánh thành, Trụ Vương và các đại thần của nhà vua lên Lộc Đài để quan sát, cảm thấy rất hài lòng, bèn xuống lệnh thăng chức cho những người có công xây dựng.
Viên đại thần chịu trách nhiệm xây dựng Lộc Đài, thấy Khương Tử Nha cũng là người có công mổ bò, mổ dê, suốt bảy năm dài, nên đã tiến cử với vua Trụ, ban chức Đại Phu cho Khương Tử Nha. Từ đó, Khương Tử Nha chuyên lo việc mổ bò, mổ dê, mổ heo, cho cung đình.
Khương Tử Nha sống bằng nghề mổ bò, mổ dê, bán bột mì, buôn heo sống tại Triều Ca đã lâu. Suốt trong những năm đó, chính mắt ông trông thấy sự bạo ngược của vua Trụ, và chính mắt ông cũng trông thấy bá tánh đau khổ như thế nào. Cho nên ông hiểu rõ sự hủ bại của nhà Thương là đã đến mức cùng cực, vậy ngày diệt vong của nó cũng không còn bao lâu nữa. Ông lại được nghe ở Tây Kỳ có Châu Văn Vương, là một nhà vua đang lo việc cải cách nền cai trị của mình, giảm nhẹ tất cả mọi hình phạt, giảm nhẹ mọi thứ thuế khóa, quan viên ai ai cũng liêm khiết và biết thương yêu dân. Nhà vua còn chiêu đãi hiền sĩ, lấy đức để trị dân, nên bá tánh hết sức ủng hộ, thế nước ngày một cường thịnh lên.
Khương Tử Nha nghĩ bụng : Ta phải tìm dịp tới Tây Kỳ phụ tá cho Văn Vương tiêu diệt vua Trụ của nhà Thương, để trả thù cho cha mẹ, và cứu bá tánh trong thiên hạ ra khỏi nước sôi lửa bỏng.
Có một đêm, Khương Tử Nha ngồi nói chuyện chơi với Lâm Hổ, được Lâm Hổ báo cho biết, gần đây có một câu chuyện “Phượng gáy ở Tây Kỳ” như sau :
– Châu Văn Vương vẫn thường tự mình mang cơm nước đến cho nông dân đang cày cấy ngoài ruộng, để khuyến khích nông dân lo việc trồng tỉa lúa thóc, hoa màu. Nhà vua còn đích thân dẫn thanh niên trong Vương thất xuống ruộng cày cấy, sống một cuộc sống cần kiệm, lao lực, giống y như mọi người dân. Nhà vua còn giáo hóa cho bá tánh ở Tây Kỳ phải biết hiếu kính cha mẹ, lo nuôi dưỡng dạy dỗ con em, và luôn luôn đề xướng một tinh thần công chính và tiết tháo, sẵn sàng giúp đỡ cho người neo đơn, cô quả, khiến Tây Kỳ dần dần trở thành một nước biết trọng lễ nghĩa. Do vậy, vùng đất nhà Châu đã trở thành một khu vực thịnh vượng. Bá tánh của những nước nhỏ ở chung quanh, bồng bế nhau cùng đến Tây Kỳ để sinh sống. Trên mười nước nhỏ chung quanh nhà Châu, đua nhau đến xin liên minh với nhà Châu và tôn Châu Văn Vương lên làm minh chủ.
Vào hôm tiến hành nghi lễ liên minh, Văn Vương bước lên tế đàn để cúng tế trời đất. Có một con thần điểu từ núi Kỳ Sơn bay tới, đậu trên cành cây cao trước tế đàn. Con chim này có màu sắc rực rỡ, hết sức xinh đẹp. Đại phu Tản Nghi Sinh buột miệng kêu to:
– Đấy là chim phượng hoàng !
Con chim giương cổ hót vang một tiếng, rung chuyển cả bầu trời và truyền đi xa hằng trăm dặm. Chỉ trong nháy mắt, từ bốn phương tám hướng, có vô số các loài chim đua nhau bay tới, đáp xuống đậu chung quanh con phượng hoàng. Chúng nhảy múa như triều bái con phượng hoàng. Sau khi triểu bái xong, chúng lại nhảy múa và cất tiếng hót rất uyển chuyển, khiến ai nghe cũng đều say mê.
Sau đó, con phượng hoàng bèn hướng dẫn bầy chim vỗ cánh bay về hướng núi Kỳ Sơn. Chư hầu bốn phương thấy thế, bèn quỳ xuống chúc tụng Văn Vương. Họ cho rằng Văn Vương dùng đức để cai trị thiên hạ, nên cảm động đến lòng trời, nay phái phượng hoàng xuống để triều bái nhà vua.
Phượng hoàng là vua trong bách điểu, cảnh bách điểu triều bái vừa rồi là một cảnh tượng hiếm có. Đấy là điểm Văn Vương sắp được thiên hạ.
Khương Tử Nha nghe Lâm Hổ kể xong, trong lòng hết sức vui mừng, nghĩ bụng : “Trụ vương là tên hôn quân vô đạo, còn Văn Vương là một người hiền minh có đức độ khác nhau rõ ràng. Như vậy, người tương lai tiêu diệt vua Trụ của nhà Thương để cai trị thiên hạ, chắc chắn là Văn Vương chứ không còn ai vào đây nữa. Vậy ta hãy tìm hiểu kỹ hơn về nội bộ của nhà Thương, để khi tới Tây Kỳ, sẽ giúp đỡ cho Văn Vương”.
Đối với lòng dạ của Khương Tử Nha, Lâm Hổ đã biết rõ từ lâu, nhưng không bao giờ nói ra. Lâm Hổ lại nói :
– Còn một chuyện quan trọng này nữa, không rõ hiền điệt có biết chưa ? Tử Nha hỏi :
– Còn có chuyện quan trọng chi nữa ? Lâm Hổ nói:
– Trụ Vương sau khi nghe tin đồn có phượng hoàng đáp xuống Tây Kỳ, liền đùng đùng nổi giận, cho rằng đấy là Văn Vương muốn bịa chuyện để lôi kéo nhân tâm, mưu đồ bất chính, cho nên Trụ Vương đã phái người đi bắt Văn Vương, và hiện đang chuẩn bị đem Văn Vương ra giết.
Khương Tử Nha nghe vậy không khỏi kinh hoàng thất sắc, buộc miệng hỏi:
– Như vậy thì biết tính sao ?
Lâm Hổ thấy Tử Nha quá cuống quít, đoán biết Tử Nha đang hướng về Tây Kỳ, bèn nói :
– Hiền điệt chớ quá lo buồn. Nghe đâu ở Tây Kỳ đã phái người trưởng nam của Văn Vương là Bá Ấp Khảo và đại phu Tán Nghi Sinh đến Triều Ca, dùng nhiều tiền bạc và báu vật, hối lộ các đại thần triều nhà Thương.
Đồng thời, họ cũng đem dâng cho Trụ Vương rất nhiều mỹ nữ, nên Trụ Vương đã bắt đầu thay đổi ý định, không giết Văn Vương nữa, mà chỉ đem giam ông tại Dũ Lý.
Tử Nha nghe đến đây bèn thở thào nhẹ nhõm, lên tiếng hỏi :
– Bá Ấp Khảo và Tán Nghi Sinh có thể cứu được Văn Vương chăng ?
– Đã là cát nhật tất nhiên sẽ có thiên tướng. Hiện nay có không ít các đại thần ở Triều Ca đang hướng về Văn Vương, nên họ đã cực lực giúp đỡ Bá Ấp Khảo và Tán Nghi Sinh tiến hành việc cứu Văn Vương. Ngay như chúng tôi là những người buôn bán, cũng mong sẽ có ngày Văn Vương lên làm Thiên từ, nên ai ai cũng bí mật quyên góp vàng bạc, báu vật để cho Bá Ấp Khảo và Tán Nghi Sinh lo việc cứu Văn Vương ra khỏi ngục. Không giấu chi hiền điệt, chính Lâm Hổ tôi cũng đã quyên góp năm chục lượng bạc đấy nhé !
Khương Tử Nha chụp lấy cánh tay của Lâm Hổ, nói :
– Thúc phụ quả là người am hiểu đại nghĩa. Nay tôi xin thay mặt Văn Vương thi lễ trước chú vậy!
Khương Tử Nha làm nghề mổ bò và về sau lại được làm quan tại Triều Ca, cuộc sống ngày một khá hơn. Do vậy, ông đã trả lại tất cả số tiền trước đây đã mượn của Lâm Hổ. Lâm Hổ kiên quyết không nhận, nhưng thấy Khương Tử Nha nhất định đòi trả, nên ông bất đắc dĩ phải nhận lấy.
Một hôm, Khương Tử Nha trở về nhà sớm, cùng ngồi nói chuyện với Lâm Hổ. Trong dịp này, Lâm Hổ bèn nói:
– Này hiền điệt, mấy năm qua, đời sống của hiền điệt đã được ổn định, lại được làm quan, dù là quan lớn hay quan nhỏ cũng thế. Vậy, nên cưới vợ sinh con, để thành gia thất mới phải. Chả lẽ hiền điệt định sống trọn đời một thân một mình như thế này mãi sao ?
Khương Tử Nha đáp :
– Xin đa tạ ý tốt của thúc phụ. Nhưng nay đã là người sáu mươi tuổi rồi, vậy còn cưới vợ sinh con chi nữa?
Lâm Hổ tươi cười, nói :
– Nếu hiền điệt có ý muốn thành gia thất, thì tôi sẵn có quen với một người họ Mã, tên gọi Mã Tài. Ông ta có một người em gái tên gọi Mã Châu, năm nay đã bốn mươi sáu, bốn mươi bảy tuổi. Nhà ông ta cách đây không xa.
Vậy để tôi đến đấy nói chuyện với ông ta, xem tình hình thế nào? Nói dứt lời, Lâm Hổ đứng lên ra đi. Khương Tử Nha không cản lại.
Đêm đó, khi vừa đỏ đèn, Lâm Hổ tươi cười trở về thấy mặt Khương Tử Nha, ông bèn nói :
– Này hiền điệt, tôi xin chúc mừng chú đấy ! Mã Tài và cô em gái của ông ta đã bằng lòng. Nếu hiền điệt có ý lập gia đình, thì nên sớm tiến hành đi nào. Anh em Mã Tài không đòi hỏi lễ nghi phiền phức vậy không rõ ý hiền điệt nghĩ sao ?
Khương Tử Nha thấy nếu cưới vợ cũng được, vì một là có con cái để nối dõi tông đường, hai là không phụ lòng tốt của Lâm Hổ. Cho nên ông đã bằng lòng.
Lâm Hổ bèn chọn ngày hoàng đạo cát nhật, chuẩn bị mở tiệc cưới vợ cho Khương Thượng. Sáng sớm hôm ngày cưới, Lâm Hổ chuẩn bị sẵn một chiếc kiệu hoa, một đội nhạc nho nhỏ, vừa đánh trống thổi kèn vừa đi đến nhà họ Mã đế đón dâu. Phòng tân hôn được đặt trong khách điếm của Lâm Hổ.
Người đời thường bảo : “Cô dâu mới bao giờ cũng siêng năng được ba hôm”. Sau khi Mã Châu về nhà chồng, mấy hôm đầu cũng tỏ ra chăm cần. Nào ngờ thời gian kéo dài thì chân diện mục của cô ta dần dần đã bộc lộ. Mã Châu là một cô gái thích ăn, biếng làm, suốt ngày thích đi sang nhà hàng xóm để tán gẫu, không chú ý gì tới chuyện nhà. Đêm đến, cô ta không chịu ngủ yên, mà bắt Tử Nha phải chơi đùa với mình. Tảng sáng, cô ta không chịu thức dậy sớm để lo nấu cơm, mà kéo mền phủ kín đầu ngủ đến mặt trời lên cao ba sào cũng chưa chịu dậy. Riêng Tử Nha thì phải vào triều đình làm việc rất sớm thường mang theo một chiếc bánh “mằn thắn” để ăn lót dạ. Đến trưa, Tử Nha trở về, Mã Châu chỉ nấu nướng sơ sài, chẳng khác nào bố thí cho kẻ ăn mày. Cũng may Tử Nha là người đã quen sống kham khổ, nên cũng không trách móc vợ. Nhờ vậy, hai vợ chồng vẫn sống yên ổn như mọi người. Sau một năm, Mã Châu sinh cho Khương Tử Nha một đứa con gái, đặt tên là Ấp Khương. Bé Ấp Khương thông minh lanh lợi, được mọi người chung quanh yêu thích. Đến năm bảy tuổi, cô bé càng thông minh, nên Tử Nha càng yêu quý, đặt hết hy vọng vào đứa con gái của mình. Những lúc có thì giờ rãnh rỗi, ông thường dạy con thi văn, viết chữ, vẽ tranh. Ấp Khương học gì biết nấy, càng ngày càng giỏi. Thỉnh thoảng cô bé con lấy thanh long kiếm của phụ thân ra múa, hết sức thích thú. Khương Tử Nha thấy vậy, cũng dạy cho con gái một vài đường kiếm.
Một hôm, Khương Tử Nha từ lò sát sinh trở về nhà, thấy thì giờ còn sớm, nên muốn gọi Mã Thị lại để cùng nhau chuyện trò. Nhưng Mã Thị đang ở trong phòng cách một bức vách, la to :
– Có chuyện gì thì cứ nói, bà ở đây nghe được rồi. Khương Tử Nha đáp :
– Chúng mình đã là vợ chồng với nhau, xem như cũng có duyên phận. Nay tuổi đã lớn, lại có một đứa con gái lanh lợi dễ thương như Ấp Khương, âu cũng là có kết quả tốt. Vậy chúng ta nên sống hòa thuận với nhau, hà tất hằng ngày cứ tức giận la ó như thế ?
Mã Thị nói:
– Kể từ ngày tôi lấy anh, chưa bao giờ được ăn một bữa cơm ngon, được mặc một bộ đồ đẹp. Cuộc sống như vậy, tôi không thể tiếp tục sống được nữa. Tôi đã suy nghĩ kỹ rồi, duyên phận của chúng ta tới đây là hết. Vậy tôi sẽ ly hôn với anh, mạnh ai đi đường nấy.
Khương Tử Nha thấy Mã Thị đã dứt khoát, không còn cách nào cứu vãn được, nên đi tìm hai vợ chồng Lâm Hổ. Vợ chồng Lâm Hổ lấy lời hơn lẽ thiệt khuyên nhủ cả buổi, nhưng Mã Thị quyết bỏ chồng ra đi, vậy còn có cách nào khác hơn được.
Khương Tử Nha đành phải viết tờ ly hôn với vợ, và nhờ Lâm Hổ làm chứng, rồi báo cho Mã Tài đến đưa em gái trở về nhà. Khương Tử Nha nghĩ tới tình vợ chồng từ bấy lâu nay, nhất là Mã Thị đã sanh cho ông một đứa con gái ngoan ngoãn nên đem hết tất cả tiền bạc mà bấy lâu nay ông dành dụm được, tặng cả cho Mã Thị để dùng về sau. Đứa con gái Ấp Khương thì đi theo cha.
Về sau, khi Khương Tử Nha đến gặp Văn Vương, và chẳng mấy chốc đã được cử làm chức Thái Sư của Văn Vương, hết sức danh dự. Lúc bấy giờ Mã Châu cảm thấy hối hận, nên đích thân tìm với phủ Thái Sư, yêu cầu được làm vợ chồng trở lại với Khương Tử Nha. Mặc dầu Khương Tử Nha vẫn chưa tục huyền, nhưng đối với việc Mã Thị đã bỏ ông trong lúc ông đang ở trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn, nên bất luận thế nào cũng không thể tha thứ được. Ông bưng ra một thau nước lạnh, đổ ào xuống đất, rồi hỏi Mã Thị:
– Cô có thể hốt số nước đổ xuống đất kia trở lại hay không ?
Mã Thị thấy thế, biết lòng dạ của Tử Nha đã quyết, chắc chắn không làm sao chung sống trở lại được, nên rơi lệ như mưa. Sau khi trở về nhà, Mã Thị đóng cửa rồi thắt cổ tự ải. Khương Tử Nha nghe tin Mã Thị thắt cổ chết, nghĩ đến tình chồng vợ trước kia, nên không khỏi cảm động rơi lệ, sai người mua quan quách tẩm liệm, đưa về tận quê hương ở Tây Châu để cử hành tang lễ một cách long trọng.
3. Buông Câu Tại Bàn Khê
Sau khi ly hôn với Mã Thị, Khương Tử Nha lại tiếp tục sống tại Triều Ca mấy năm, thấy ở đấy không thể tìm được lối ra cho mình, nên bàn với con gái là Ấp Khương, định dời đến Kỳ Châu để mưa sinh. Ấp Khương năm đó đã mười bốn, mười lăm tuổi, xinh đẹp như hoa như ngọc, lại biết cả văn chương lẫn võ nghệ. Cô ta nghe nói ở Tây Kỳ có Châu Văn Vương, người hiền lương đức độ, luôn chiêu hiền đãi sĩ, nên cũng rất thích nơi đó. Nhất là cô ta thấy cha già của mình tuy tuổi đã cao, nhưng vẫn còn nuôi chí lớn. Cho nên cô đồng ý với cha cùng dọn đến Tây Kỳ để ở.
Hai cha con gạt lệ từ giã vợ chồng Lâm Hổ, rời khỏi Triều Ca đi đến một địa phương có tên là Bàn Khê tại Tây bộ của Thiểm Tây để ở.
Bàn Khê là một thung lũng hẹp, nằm giữa hai ngọn núi cao của Tần Lĩnh, cũng được gọi là Phàm Cốc. Chung quanh núi non xanh rì, mây bay mù mịt. Một con sông có tên là Phạt Ngư Hà, từ giữa hai ngọn núi uốn lượn chảy qua, tiếng nước róc rách suốt ngày, rồi tiếp tục chạy thẳng đến phía Bắc để hòa vào dòng sông Vị Thủy. Bên cạnh Phạt Ngư Hà có một dòng suối tên gọi Tư Tuyền, nước trong leo lẻo, sóng gợn lăn tăn. Núi non nơi đây rất hùng vĩ, tùng bách mọc xanh um, cảnh trí vô cùng xinh đẹp, trang nhã, lại yên tĩnh. Hai cha con thấy vùng đất này đều yêu thích, bèn cắt tranh lợp nhà, lấy đá làm tường, để tạo cho mình một nơi ở yên ấm. Kể từ đó, Khương Tử Nha ngày ngày câu cá bên bờ Bàn Khê để mưu sinh, và cũng để giết thì giờ nhàn rỗi.
Khương Tử Nha buông câu bên bờ Bàn Khê được mấy năm, nhưng người chung quanh không ai để ý đến. Mọi người đều nghĩ hai cha con ông là một gia đình nghèo khó, lưu lạc tới đây nương thân mà thôi.
Một hôm, Khương Tử Nha đang ngồi câu cá bên bờ suối, bỗng nghe có người từ trên núi vừa hát vừa đi xuống. Ông quay đầu ngó lại, thấy đấy là một người tiều phu. Người tiều phu này tuổi chừng ba mươi, ngoại hình khỏe mạnh, oai phong. ông ta đặt gánh củi nặng chừng bốn năm trăm cân xuống đất, rồi bước tới sát bên cạnh Khương Tử Nha ngồi xuống để nghỉ chân và gợi chuyện.
Người tiêu phu nói :
– Thưa lão trượng, suốt mấy năm qua tôi trông thấy ông ngồi câu ở đây, nhưng tại sao không thấy ông bắt được một con cá nào cả ?
Khương Tử Nha nghe hỏi, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng nghĩ bụng: “Xem ra người tiều phu này đã chú ý ta từ lâu. Ta đến vùng núi non hẻo lánh này sống mấy năm qua, rất ít ai chủ động đến gợi chuyện, và cũng không ai để ý tới hành tung của ta. Nay người tiều phu này chẳng những tự động đến làm quen với ta, mà còn nói lên những điều bí mật của ta nữa. Xem ra, ngày ta xuất đầu lộ diện không còn xa !”.
Người tiều phu vừa gợi chuyện, vừa đưa tay cầm lấy chiếc cần câu của Khương Tử Nha dở lên cao rồi chỉ vào lưỡi câu thẳng như cây kim, nói :
– Như vầy có thể gọi là lưỡi câu được sao ? Rõ ràng đây chỉ là một cây kim may áo. Để tôi truyền cho ông một phương pháp làm lưỡi câu. Ông hãy dùng lửa đốt đỏ cây kim này, rồi uốn thành một cái móc, móc mồi vào thì chắc chắn sẽ câu được cá đấy.
Khương Tử Nha bị thái độ ngay thẳng của người trai trẻ làm cho vui lây, nên liền cười ha hả, nói:
– Nếu vậy, lão cũng nói thật lòng của lão cho cậu nghe. Lão thà được những gì trong ngay thẳng, chứ không bao giờ đi tìm những gì trong quanh co. Lão nào chú ý đến những con cá bạc dưới suối kia mà chỉ nhằm câu Vương và câu Hầu mà thôi ?
Nói dứt lời, Khương Tử Nha lại lẩm nhẩm đọc trong miệng một bài thơ.
Đoản can trường điếu thủ Bàn Khê, Giá cá cơ quan ná cá tri ?
Chỉ điếu đương triều quân giữ thần, Hà thường ý tại thủy trung ngư !
Dịch :
Cần ngắn câu dài tại Bàn Khê, Điều thầm kín này mấy ai nghe ?
Chỉ câu quân thần trong triều nội, Chứ nào để ý cá trong khe.
Người tiều phu nghe qua, cười to nói :
– Lão ông suốt ngày ngồi bên bờ suối, ngay đến một con tép riêu cũng không câu được, vậy nói gì đến chuyện câu Vương và Hầu ?
Khương Tử Nha nghe người tiều phu nói chuyện rất vui, bèn hỏi :
– Xin hỏi tiểu huynh đệ người ở đâu, tính danh là gì vậy ? Người tiều phu đáp :
– Tôi họ Võ tên Cát, nhà ở tại thôn Tập Mậu bên bờ sông Vị Hà. Trong nhà có một mẹ già tuổi đa bát tuần, chỉ trông cậy vào nghề đốn củi của tôi để sinh sống – Vừa nói người tiều phu vừa ngước mặt nhìn trời. Thấy thái dương sắp xuống núi, bèn đứng lên cáo từ – Thưa lão trượng, trời sắp tối rồi, ngày mai chúng ta sẽ gặp lại. Hiện giờ mẹ tôi đang trông chờ tôi về nhà nấu cơm chiều đấy.
Dứt lời anh ta bèn gánh củi lên vai, rồi tiếp tục để xuống núi.
Qua ngày hôm sau, Võ Cát lại gánh một gánh củi từ trên núi đi xuống, đến bên cạnh Khương Tử Nha, để gánh củi xuống đất, rồi dùng chiếc nón bằng cỏ đan để quạt nói :
– Thưa lão trượng, đêm qua trở về nhà, tôi nằm suy nghĩ những lời nói của lão trượng, dù tôi là một người dốt nát, nhưng vẫn cảm thấy lão trượng là một bậc cao nhân có đạo hạnh, vậy lão trượng có thể bói toán để đoán số mạng hay không ?
Khương Tử Nha tươi cười đáp :
– Việc bói toán để đoán số mạng, chẳng qua là một trò chơi của con trẻ. Vậy anh hãy nói cho tôi biết anh muốn bói chuyện gì, để tôi xem một quẻ giúp cho anh ?
Võ Cát chỉ vào gánh củi của mình, nói :
– Xin lão trượng hãy bói xem, gánh củi này của tôi đem vào thành bán được bao nhiêu tiền ?
Khương Tử Nha đưa mắt nhìn sắc diện của người tiều phu, đáp :
– Sắc mặt của anh rất hồng hào, như vậy là vận khí của anh rất đỏ. Gánh củi ngày hôm nay anh sẽ bán gấp hai lần số tiền của một gánh củi thường ngày.
Võ Cát nghe qua lời nói của Khương Tử Nha, tưởng đâu ông chỉ nói để lấy lòng mình, nên cũng không chú ý lắm. Nào ngờ khi anh ta gánh gánh củi đến chợ Tây Kỳ, chưa kịp để xuống, đã thấy có mấy người bước tới tranh nhau đòi mua. Võ Cát chưa kịp nói giá, thì lại thấy một người khác ăn mặc sang trọng, bước tới nói với anh :
– Gánh củi này đừng để xuống, xin gánh thẳng về nhà tôi, tôi sẽ trả một số tiền gấp đôi cho anh.
Võ Cát gánh gánh củi đi tới nhà người đó, thấy trong nhà có đám cưới, và đang cần củi để đun bếp. Không chờ Võ Cát kịp mở miệng nói gì, người này móc trong túi ra một bao lì xì màu đỏ, đưa cho Võ Cát và nói:
– Hôm nay trong nhà tôi có đám cưới, đang thiếu củi đun, thế mà được lão đệ đưa đến rất kịp thời. Như vậy là trong chuyện vui lại có thêm chuyện vui nữa. Vậy hãy nhận lấy số tiền này, xin đừng chê ít.
Vô Cát nhận bao tiền, mở ra đếm, thấy quả nhiên số tiền gấp đôi số tiền của một gánh củi bình thường, trong lòng không khỏi cảm thấy lạ.
Qua ngày hôm sau, Võ Cát lại gánh một gánh củi đến bên cạnh Khương Tử Nha, chưa kịp nói rõ chuyện xảy ra ngày hôm qua, thì anh ta lại hỏi :
– Thưa lão trượng, xin lão trượng bói xem ngày hôm nay vận số của tôi ra sao ?
Khương Tử Nha lại đưa mắt nhìn qua sắc diện của Võ Cát một lượt, rồi đưa tay lên vuốt râu, nói:
– Con mắt phía trái của anh hiện lên màu xanh, con mắt phía phải hiện màu đỏ. Như vậy, anh vào thành sẽ đánh chết người đấy.
Võ Cát nghe qua không vui. Nhưng nhớ đến chuyện đã xảy ra ngày hôm qua, nên không khỏi lo lắng: “Như vậy ta vào thành cần phải thận trọng. Chờ xem ngày mai này ông ấy sẽ giải thích ra sao”. Thế là Võ Cát bèn gánh gánh củi đi.
Suốt trên đường đi, Võ Cát bao giờ cũng tỏ ra cẩn thận, cứ thấy người ta thì tránh xa, không dám gợi chuyện nói với ai một câu nào cả. Anh ta gánh gánh củi đến trước cửa thành Tây Kỳ, vừa mới đi vào cửa, thì gặp binh sĩ gác cửa chận anh ta lại, bảo mau lui ra, nói :
– Xa giá của Châu Văn Vương sắp đi qua, vậy người đi đường phải tìm chỗ lánh mặt.
Võ Cát là người có thân hình khỏe mạnh, gánh củi trên vai của anh bao giờ cũng nặng hơn tất cả mọi người khác. Khi anh vừa xoay qua, thì cỗ xe của Châu Văn Vương cũng vừa chạy tới, lướt qua mặt anh nhanh như một cơn gió lốc.
Binh sĩ giữ thành thấy vậy, to tiếng quát :
– Hãy mau tìm chỗ tránh ra !
Võ Cát quá hấp tấp nên khi xoay chuyển đã va mạnh gánh củi trên vai vào vách cửa thành, nên anh bị mất thăng bằng, mấy cây củi ở phía trước vuột dây văng ra, trúng vào ót một binh sĩ giữ thành, khiến anh ta ngã ra chết ngay tại chỗ.
Văn Vương trông thấy người bán củi gây tử vong cho binh sĩ giữ thành, bèn hạ lệnh bắt Võ Cát để chờ ông trở về sẽ xét xứ. Nhà vua nói dứt lời thì ra lệnh cho cỗ xe tiếp tục chạy đi.
Binh sĩ của nhà Châu bắt giữ Võ Cát, chúng vẽ một vòng tròn trên mặt đất bảo anh đứng vào đó chờ đợi Văn Vương xét xử. Thời bấy giờ, triều nhà Châu không xây dựng những nhà giam, mà chỉ vẽ những vòng tròn trên mặt đất, tạm xem là nhà giam để giam giữ những người phạm tội. Cách làm đó được gọi là “vẽ đất làm nhà giam”. Do Văn Vương là người biết bói quẻ bát quái, người phạm tội đứng trong vòng tròn nếu trốn đi đâu, ông cũng có thể tìm ra được. Khi bắt trở về tội sẽ nặng gấp đôi, nên không ai dám bỏ trốn bao giờ.
Võ Cát đứng trong vòng tròn đến nửa đêm, nghĩ bụng : “Tự cổ, phàm giết người thì phải đền mạng. Nay ta đụng chết một binh sĩ gác cửa thành, vậy chắc chắn phải đền mạng. Ta còn một bà mẹ già tám mươi tuổi, nếu ta chết thì ai nuôi mẹ ta cho đến ngày mãn phần đây. Vậy chi bằng ta lén trốn trở về nhà, rồi sẽ tìm cách đối phó sau”.
Thế là Võ Cát bèn rời khỏi vòng tròn giam giữ mình ngay trong đêm trở về nhà gặp mẹ, nói rõ mọi việc cho mẹ nghe. Bà mẹ nói :
– Này con, lão ông kia có thể đoán đúng mọi việc như vậy, thì chắc chắn cũng sẽ có biện pháp để giải cứu cho con. Vậy con hãy mau đến Bàn Khê xin lão ông cứu mạng.
Võ Cát không dám chểnh mảng, ngay trong đêm tìm đến Bàn Khê. Anh ta đánh thức Khương Tử Nha đang ngủ trong túp lều tranh của mình, vừa khóc vừa kể lể mọi việc đã xảy ra, và tỏ ý hối lỗi vì không biết nghe theo lời dạy của lão ông, nên đã gây ra họa lớn, xin lão ông cứu giúp.
Khương Tử Nha sau mấy lần gặp gỡ đã yêu thích người trẻ tuổi, chất phác này. Nhìn thấy anh ta đang quỳ trên đất khóc lóc van xin, lại nghĩ tới anh ta còn một bà mẹ tuổi đã bát tuần ở nhà, nên tươi cười nói:
– Ta vốn có cách, nhưng anh muốn ra tay cứu giúp thì phải có một điều kiện, đó là anh phải chịu làm đồ đệ của ta.
Võ Cát vội vàng quỳ ngay xuống đất dập đầu lạy, bằng lòng làm đồ đệ của Khương Tử Nha.
Khương Tử Nha nói :
– Ta dạy cho ngươi một cách : khi trở về nhà, ngươi hãy đào một cái hố trước sân, rồi bện một hình nhân bằng rơm chôn vào cái hố đó, lấp đất lại, thì mọi việc sẽ an toàn không gặp điều gì nguy hiểm nữa.
Võ Cát ghi nhớ lời dạy trong lòng, vội vàng sụp lạy sư phụ, rồi ngay trong đêm trở về nhà làm đúng theo cách sư phụ đã hướng dẫn.
Ngày hôm sau, binh sĩ báo cáo lên Văn Vương, người tiều phu đụng chết binh sĩ gác cửa ngày hôm qua đã rời khỏi vòng tròn, bỏ trốn trong đêm. Văn Vương nghe xong, bèn dùng thuật bói toán theo bát quái, co tay tính nhẩm một lúc, bèn thở dài, nói :
– Gã tiều phu này thật là ngu ngốc. Ta biết anh ta do bất cẩn nên làm chết người. Ta không hề có ý muốn giết anh ta để đền mạng. Nhưng không ngờ anh ta quá sợ hãi, nên đã tự tử chết rồi. Thật đáng thương, thật đáng thương!. Từ đó, vụ án này xem như được bỏ qua.
Sau khi mọi việc đã yên, Võ Cát một mặt ngày ngày đi đốn củi để nuôi mẹ, một mặt lo học tập võ nghệ và binh pháp với Khương Tử Nha. Ngày tháng qua thật nhanh, không mấy chốc đã ba năm.
Năm đó, Khương Tử Nha đã hơn tám mươi tuổi. Có lẽ ông đoán biết ngày xuất đầu lộ diện của mình sắp tới, nên dạy Võ Cát hãy gánh củi vào thành Tây Kỳ để bán. Võ Cát sợ binh sĩ của Văn Vương nhận ra mình, Tử Nha liền nói :
– Dù có nhận ra nhà ngươi cũng không có chi đáng sợ. Nhà ngươi có thể đem tất cả sự thật nói cho Văn Vương nghe, nhà vua chẳng những không hại đến tính mạng của nhà ngươi, mà còn có thể phong cho nhà ngươi làm tướng làm quân nữa đấy!
Võ Cát tuân theo lời dặn dò cua sư phụ, gánh một gánh củi đi vào thành Tây Kỳ rao bán. Ngày hôm đó người lính gác cửa thành cũng là nhóm binh sĩ trước đây từng bắt giữ Võ Cát, nên vừa trông thấy Võ Cát là anh ta nhận ra ngay, vội vàng báo cáo lên cấp trên của mình.
Bọn binh sĩ bèn bắt Võ Cát đưa đến gặp Văn Vương. Văn Vương nhìn thấy, kinh ngạc đến há hốc cả mồm. Nhà vua nghĩ bụng : “Trước đây ta dùng quẻ bát quái để bói toán, thấy hắn vì sợ tội nên tự sát rồi, thế tại sao bây giờ lại còn sống ở đây?”
Võ Cát bèn đem câu chuyện được Khương Tử Nha giải cứu cho mình kể lại cho Văn Vương nghe. Nghe xong, Văn Vương cất tiếng than:
– Đúng là núi cao còn có núi cao hơn, người tài còn có người tài hơn. Khương Tử Nha có thể phá được quẻ bát quái của ta, thì chắc chắn đây là một nhân tài xuất chúng. Từ bấy lâu nay Cơ Xương ta muốn tìm người hiền tài như người khát nước muốn tìm nước để uống. Té ra người hiền tài ở sát bên cạnh mà không phát giác được.
Thế là, nhà vua bèn tuyên bố Võ Cát vô tội, và phong cho chức Võ Đức tướng quân. Đồng thời nhà vua quyết định trong vòng ba hôm, phải nhờ Võ Cát đưa đường đến Bàn Khê để gặp gỡ người hiền tài mà mình đang mong đợi.
Châu Văn Vương là nhà vua có hoài bão to, biết phép trị nước của một vị minh vương, phải biết sử dụng người hiền tài. Cho nên sau khi biết được tại Bàn Khê có một bậc đại hiền là Khương Tử Nha đang quy ẩn, trong lòng tha thiết muốn tới để mời ông ra giúp nước. Nhà vua quyết định sáng sớm ngày mai lấy cớ đi săn bắn, để đến Bàn Khê gặp mặt người hiền tài mà mình đang mong đợi.
Sáng sớm ngày hôm sau, Văn Vương trai giới tắm rửa xong, bèn dẫn con trai là Cơ Phát, Châu Công Đán, Đại Phu Tán Nghi Sinh, Đại tướng quân Nam Cung Thích, Võ Đức tướng quân Võ Cát, cùng một số văn võ đại thần khác cùng đến Bàn Khê để săn bắn.
Đến trưa ngày hôm đó, đại đội nhân mã của Châu Văn Vương đã vượt qua sông Vị Hà, còn cách Bàn Khê năm dặm đường nữa. Châu Văn Vương sợ đông đảo binh mã của mình kéo tới Bàn Khê sẽ làm cho Khương Tử Nha đang ngồi câu cá phải giật mình, nên ra lệnh binh mã hạ trại tại chỗ, và chuẩn bị sẽ dẫn một số ít người tới gặp Khương Tử Nha thôi.
Lúc đó, Thái tử Cơ Phát kiến nghị:
– Phụ thân nên tạm thời ở yên tại đây, để con tới thăm dò tin tức trước. Nếu thấy Khương Tử Nha đúng là đang ngồi câu cá tại đó, thì phụ thân sẽ đến sau cũng chưa muộn.
Châu Văn Vương nghe qua, bèn nói với người con :
– Khương Tử Nha là một bậc đại hiền, tài trí phi thường, vậy chắc chắn là người sẽ giúp cho nhà Châu chúng ta hoàn thành sự nghiệp lớn. Vậy con phải thật cẩn trọng, đừng bao giờ có thái độ lỗ mãng.
Thái tử tuân mạng, dẫn theo mấy tên thị vệ cùng đến Bàn Khê. Sau khi vào Phàm Cốc, đi không bao xa, đã trông thấy trong lùm cỏ dại có một lão ông đang ngồi trên đá, chuyên tâm câu cá. Nhưng lưỡi câu cách mặt nước đến ba xích, mà lại là một lưỡi câu thẳng, không có móc mồi.
Thái tử Cơ Phát nhìn thấy thế, trong lòng cảm thấy tức cười, bèn lặng lẽ đứng sau lưng lão ông quan sát. Chợt đâu có một con cá bé nhảy lên khỏi mặt nước, ngậm lấy lưỡi câu. Lão già thò tay bắt lấy con cá, ngắm nghía một lúc lâu. Thái tử Cơ Phát không khỏi kinh ngạc, vội vàng bước tới thi lễ, nói :
– Xin thi lễ trước lão ông !
Khương Tử Nha như không nghe thấy, tiếp tục nói lẩm nhẩm một mình :
– Câu câu câu ! Con lớn không đến con nhỏ đến ! Vậy già này sẽ trả ngươi về với dòng suối trong !
Dứt lời, lão ông thả con cá nhỏ vào dòng suối. Con cá quẫy đuôi rồi lội đi tuốt.
Thái từ Cơ Phát là người thông minh, nghe qua lời nói của Khương Tử Nha, biết ngay ngụ ý của lão ông muốn nói gì. Cơ Phát đoán biết muốn mời được lão ông này, ngoài phụ vương của mình ra thì không ai làm được cả. Do vậy, Thái từ Cơ Phát bèn lặng lẽ trở về doanh trại, đem mọi việc tâu lại cho Văn Vương nghe.
Nghe xong, Văn Vương vội vàng đưa tay lên vỗ nhẹ vào ót của mình, nói :
– Ta nhất thời đã hồ đồ, suýt nữa đã để lỡ mất một vị đại hiền. Giờ đây ta phải đích thân đến đó mới được.
Thế là, Châu Văn Vương lại tắm gội một lần nữa, thay áo sạch sẽ, rồi cùng Thái tử Cơ phát đi thẳng vào phàm Cốc.
Sau khi vào Phàm Cốc, Châu Văn Vương nhìn thấy khắp nơi tùng bách xanh um, khói mây mờ ảo, suối chảy róc rách, chim kêu vui tai, rõ ràng là một tiên cảnh, nên buột miệng than rằng :
– Núi sâu có cọp dữ, tiên cảnh có hiền tài. Ở đây đúng là một nơi có cảnh trí thật xinh đẹp.
Thái tử Cơ Phát dẫn Văn Vương đến nơi cụ già ngồi câu, chỉ thấy tảng đá trống trơn, còn người ngồi câu thì không thấy nữa. Thái từ Cơ Phát nghĩ bụng : “Chả lẽ cụ già lánh mặt, không muốn gặp mình hay sao”. Thái tử bèn quay sang Văn Vương, nói :
– Xin phụ thân hãy đứng đây chờ đợi, để con đi khắp nơi tìm kiếm. Văn Vương ngăn lại, nói :
– Không thể lỗ mãng được ! Người ẩn cư bao giờ cũng thích sự thanh tịnh. Theo Võ Cát cho biết, cách đây không quá năm dặm về phía Nam, có một sơn động dùng làm tịnh thất. Nơi đó chính là nơi nghỉ ngơi của Khương ông. Chúng ta thong thả đi tìm vậy ?
Hai cha con lại tiếp tục đi theo đường núi, đến bên dưới bậc tam cấp của gian tịnh thất. Lúc bấy giờ Văn Vương đã quá mệt, hơi thở dồn dập, mồ hôi chảy ướt cả áo, đôi chân không còn di chuyển nổi nữa. Thái tử Cơ phát khuyên cha:
– Phụ thân hãy ở lại đây nghỉ ngơi giây lát, chờ con lên đấy xem qua – Nói dứt lời, Thái tử Cơ Phát đi lên bậc tam cấp và đã đến trước cửa gian tịnh thất. Trong khi Thái tử Cơ Phát định đưa tay gõ cửa thì bỗng nghe cánh cửa chuyển động kèn kẹt rồi mở rộng ra. Một thiếu nữ xinh đẹp như hoa đào hoa lý, đứng sừng sững trước cánh cửa vừa mở, nhoẻn miệng cười hỏi:
– Xin hỏi công tử là ai ?
Tiếng nói của cô gái trong trẻo như tiếng oanh tiếng yến, uyển chuyển vui tai. Thái tứ Cơ Phát bất ngờ nhìn thấy một cô gái xinh đẹp phi thường, không khỏi đứng sững sờ một lúc lâu mà không nói được tiếng nào.
Cô gái này chính là Ấp Khương, ái nữ của Khương Tử Nha. Cô là người từng theo cha lưu lạc khắp mọi nơi, từ Triều Ca lần mò đến Bàn Khê, lúc nào cũng có dịp tiếp xúc với mọi người chung quanh, nên tánh tình tự nhiên, không e thẹn như các cô gái quen sống trong khuê các. Vừa nhìn thấy một vị công tử tuấn tú khôi ngô, cô gái có cảm giác rất ngộ nghĩnh, lên tiếng hỏi tiếp :
– Phải chăng ngài muốn tìm phụ thân tôi là Khương Tử Nha ?
Đến chừng đó, Thái tử Cơ Phát mới như bừng tỉnh cơn mộng. Ông biết mình đang mất tự nhiên, nên vội vàng đáp :
– Tôi là Cơ Phát, con trai của Văn Vương. Cha tôi hôm nay đến đây là muốn bái kiến đại hiền nhân Khương Tử Nha. Không rõ ông cụ hiện giờ ở đâu ?
Ấp Khương tươi cười, đưa tay chỉ về dòng suối đang chảy. Nơi đó có một cụ già ngồi trên một chiếc thuyền vuông, vừa hát nghêu ngao vừa thả xuôi theo dòng nước. Cụ già đó chính là Khương Tử Nha.
Thái Tử Cơ Phát từ biệt Ấp Khương rồi cùng phụ thân đi trở lại Tư Tuyền. Khi hai người ngước mặt nhìn, đã thấy Khương Tử Nha đang ngồi trên mặt đá lẳng lặng buông câu.
Cha con của Văn Vương không đám gây tiếng động mạnh, sợ Khương Tử Nha giật mình. Hai người nhón gót đi thật nhẹ, đến sát bên cạnh Khương Tử Nha, đứng lẳng lặng nhìn ông cụ đang câu cá. Họ thấy Khương Tử Nha cầm cần câu hướng về mặt suối, nhưng lưỡi câu lơ lửng trên không trung, chứ không chìm xuống nước. Bỗng có một con cá to và một con cá nhỏ màu vàng ánh, từ dưới nước quẫy đuôi nhảy vọt lên ngậm lấy lưỡi câu, rồi tiếp tục quẫy mạnh giữa không trung. Khương Tử Nha nói lẩm nhẩm một
mình :
– Câu câu câu ! Cá lớn cá bé cùng cắn câu. Lại có cả đại thần văn võ cùng đến, ánh mặt trời đang chiếu rọi trên đỉnh đầu !
Nói dứt lời, cụ già bắt hai con cá vàng bỏ vào giỏ.
Văn Vương biết thời cơ đã đến, bèn cất tiếng nhỏ nhẹ nói :
– Hiền sĩ thích câu cá lắm sao ? Cơ Xương tôi hôm nay đến đây để vấn an hiền sĩ !
Khương Tử Nha quay mặt lại nhìn cha con Văn Vương, rồi vội vàng đáp lễ :
– Vì không biết Văn Vương giá đến, nên không kịp ra tận ngoài xa để nghênh đón, tội thật đáng chết ! Đáng chết !
Văn Vương vội vàng đỡ Khương Tử Nha đứng lên, đáp lễ nói :
– Vừa rồi Cơ Xương tôi không đích thân tới mời hiền sĩ, vậy xin hiền sĩ tha thứ.
Nhà vua bèn quay sang bảo con trai quỳ lạy ra mắt Khương Tử Nha. Văn Vương cầm lấy một cánh tay cua Khương Tử Nha, nói :
– Tiên vương là Thái Công từng tiên đoán, sau này sẽ có một vị đại hiền nhân tại Phương Đông đến để phụ tá cho Châu thất. Từ đó, Châu thất sẽ hưng thịnh lên. Vậy, vị đại hiền nhân mà Thái Công đoán đó có phải chính là
hiền sĩ không ? Tiên Vương Thái Công đã trông ngóng ngài từ lâu rồi. Ngài chính là người mà Thái Công trông ngóng (Thái Công vọng) !
Từ đó Khương Tử Nha tự xưng mình là “Thái Công vọng”.
Khương Tử Nha thấy cha con Văn Vương trọng người hiền tài như vậy, trong lòng hết sức cảm động, nói :
– Văn Vương tỏ ra yêu quý già này như thế, thử hỏi già này làm sao không khỏi cảm động ? Chẳng qua hiện nay già đã quá bát tuần rồi, e rằng lực bất tòng tâm, khó đảm đương nổi những trọng trách của Văn Vương giao phó, vậy xin Văn Vương hãy suy nghĩ kỹ.
Văn Vương vội vàng đáp :
– Người có chí lớn không bị hạn chế bởi tuổi già. Theo tôi, hiện nay Khương công tuy tóc đã bạc trắng, nhưng da dẻ vẫn hồng hào như người trai trẻ, sức khỏe còn rất tốt, tinh thần còn sung mãn, chắc chắn khuôn phò Châu thất, đảm đang nhiều nhiệm vụ trọng đại. Nếu Khương công chấp thuận lời cầu xin của tôi, thì đó quả là một điều may mắn cho Châu thất.
Khương Tử Nha thở dài, đáp :
– Văn Vương không chê già, thì già này tất nhiên phải dốc hết tâm trí và sức lực của mình để đáp lại như loài khuyển mã. Chẳng qua vì già ngồi câu cá tại Tư Tuyền này đã nhiều năm qua, nên hai chân không còn đi đứng tự nhiên được nữa. Vậy biết làm sao đây ?
Văn Vương vội vàng đáp :
– Khương công chẳng cần phải lo nghĩ về điều đó. Nếu ngài bằng lòng giúp quả nhân xây dựng đất nước hưng thịnh, thì cha con quả nhân sẽ cõng ngài xuống núi. Hiện giờ cỗ xe của quả nhân để cách đây không xa vậy xin mời hiền sĩ hãy ngồi cỗ xe của quả nhân mà đi.
Văn Vương liền sai Thái tứ cho người đánh cỗ xe tới, rồi đỡ Khương Tử
Nha lên xe. Thái tử Cơ Phát nhớ còn Ấp Khương ở trong nhà, nên vội vàng nhắc nhở phụ thân :
– Trong thạch thất hãy còn một người. Khương Tử Nha nói:
– À, nó là tiểu nữ của già đấy.
Văn Vương nghe nói Khương Tử Nha còn có một người con gái, bèn sai Thái tử Cơ Phát đánh xe đến đó nghênh đón.
Để bộc lộc sự tôn kính của mình đối với Khương Tử Nha, Văn Vương ra lệnh cho tùy tùng tháo bỏ những con ngựa kéo xe, rồi chính mình bước vào để kéo cỗ xe đó. Khương Tử Nha không từ chối, vẫn ngồi yên trên xe, nói :
– Như vậy thì nhọc cho ngài quá !
Văn Vương bèn lấy dây cương ngựa buộc vào thân mình, rồi kéo cỗ xe xuống núi. Do đường tụt dốc, nên chẳng mấy chốc Văn Vương đã kéo được cỗ xe tới Tập Hiền Trang. Đến đây, đường núi bỗng chuyển thành lên dốc, Văn Vương phải ra sức kéo mạnh cỗ xe, nhưng bỗng sợi dây buộc vào mình nhà vua bị đứt, suýt nữa nhà vua bị té xuống mặt đường.
Lúc bấy giờ, Khương Tử Nha ngồi trên xe phá lên cười to ha hả, nói :
– Ngài đã đi được tám trăm lẻ tám bước, vậy tôi cần phải bảo vệ giang sơn của nhà Châu đúng tám trăm lẻ tám năm !
Văn Vương nghe nói kéo cỗ xe đi được mấy bước, thì giang sơn của mình có thể bảo vệ được mấy năm. Cho nên nhà vua muốn tiếp tục kéo cỗ xe nữa, để giang sơn của nhà Châu được tồn tại vĩnh viễn. Thế là nhà vua nối sợi dây lại, định tiếp tục kéo xe đi. Nhưng Khương Tử Nha nói :
– Số trời đã định như vậy, không thể cãi được.
Văn Vương mời Khương Tử Nha đến Tây Kỳ, cử ông làm Thái Sư, chấp chưởng quân quyền của triều đình nhà Châu. Khương Tử Nha phụ tá cho triều đình nhà Châu với một tấm lòng trung thành tha thiết, và về sau đã hoàn thành trọng trách tiêu diệt được Trụ Vương của nhà Thương, khai sáng cơ nghiệp kéo dài hơn tám trăm năm cho triều đình nhà Châu.
4. Nửa Đêm Đến Viếng
Sau khi Văn Vương mời được Khương Tử Nha, cảm thấy chẳng khác nào như lúc gặp hạn lại được mưa xuân, cá mắc cạn lại gặp được nước sông lai láng, hết sức vui mừng, nhưng cũng hết sức nôn nóng. Nhà vua bèn phong cho Khương Tử Nha chức Thái Sư, và trao quân quyền của nhà Châu cho ông chưởng quản. Nhà vua hy vọng Khương Tử Nha sẽ bày mưu hiến kế, giúp cho nhà Châu nhanh chóng cường thịnh lên, để sớm tiêu diệt nhà Thương, thống nhất thiên hạ, hoàn thành sự nghiệp lớn của mình. Do vậy, Văn Vương thường tới phủ riêng của Thái Sư, chủ động bàn bạc các vấn đề quốc gia đại sự, và nghiêng tai lắng nghe nhưng ý kiến hay của Khương Tử Nha.
Văn Vương là một nhà vua có hoài bão lớn. Mục đích của Văn Vương là thống nhất thiên hạ. Riêng Khương Tử Nha là một bậc hiền tài, kinh luân đầy bụng, thao lược hơn người, nên luôn muốn báo đáp cái ơn tri ngộ với Văn Vương, một lòng một dạ phụ tá cho nhà Châu để tiến lên lật đổ sự thống trị của Trụ Vương hung bạo. Chính vì vậy mà ý chí của họ rất giống nhau, lòng dạ của họ đều hướng về một phía. Mỗi khi gặp nhau, đôi bên nói tất cả những ý nghĩ trong lòng mình, và tỏ ra rất tương đắc. Chỉ một thời gian ngắn, giữa nhà vua và Khương Tử Nha đã trở thành một đôi bạn tri kỷ.
Có một đêm nọ, sau khi dùng cơm tối xong, Châu Văn Vương bèn bước ra sân sau tản bộ. Lúc bấy giờ là mùa Thu, trời trong gió mát. Trên nền trời một vành trăng sáng đang treo lơ lửng, tỏa ra ánh sáng màu bạc rực rỡ khắp mọi nơi. Văn Vương ngước mặt nhìn bầu trời đang nhấp nháy vô số những vì sao, trong lòng tình cảm lai láng. Nhà vua đang nghĩ đến việc nhà Châu nhiều năm qua tuy được nghỉ ngơi dưỡng sức, đời sống của bá tánh ngày càng sung túc hơn, nhưng nếu đem so sánh giữa triều đình nhà Châu với triều đình nhà Thương, thì triều đình nhà Châu chỉ có một vùng đất bé nhỏ, sức nước lại yếu kém. Nếu không nhanh chóng đưa nhà Châu tiến lên thành một nước cường thịnh thì không mong chi lật đổ được triều đình nhà Thương để thống nhất thiên hạ. Nhưng phải làm sao để đẩy nhanh tốc độ phát triển của nhà Châu, đến đất nước ngày càng thêm giàu mạnh ? Vấn đề này chính là một vấn đề luôn luôn gay gắt trong lòng của Văn Vương. Khi nghĩ tới đây, tâm trạng của nhà vua bỗng thấy rối bời như cuộn tơ vò không biết đâu là đầu mối Nhà vua bèn ngửa mặt nhìn trời thở dài, buồn bã.
Bỗng nhiên từ trên bầu trời cao, có một ngôi sao băng xẹt từ phía Tây sang phía Đông, rồi mất hút giữa bầu trời xanh thẳm. Hiện tượng này đã làm cho Văn Vương vô cùng xúc động. Phải đời người có khác chi một giấc mộng, chỉ trong nháy mắt là đã một trăm năm trôi qua. Nay ta đã bảy mươi tuổi rồi, vậy biết đâu có ngày nào đó cũng giống như ngôi sao băng kia, bay xẹt qua bầu trời rồi vĩnh viễn không còn tồn tại? Một ngôi sao băng trước khi tiêu diệt, nó có thể phát lên một thứ ánh sáng chói mắt. Vậy ta đâu chịu lẳng lặng ra đi, mà phải làm nên một sự nghiệp gì trong giai đoạn tuổi già. Cho dù không chính mắt trông thấy được triều nhà Thương bị diệt vong, ít nhất ta cũng phải đặt một cơ sở tốt cho con cháu sau này phát triển được thuận tiện.
Nhà vua không muốn tản bộ nữa, mà muốn đến ngay phủ riêng cua Thái Sư để đôi bên cùng nhau bàn bạc những chuyện quốc gia đại sự. Trước khi đi, nhà vua bỗng nghĩ tới Thái tử cơ Phát, nên liền gọi Thái tử đi theo đến viếng phủ Thái Sư ngay trong đêm.
Thấy Văn Vương và Thái tử đang đêm tới viếng, Khương Thái Công hết sức kinh ngạc. Chờ cho Văn Vương và Thái tử ngồi yên xong, Thái công mới vội vàng hỏi :
– Văn Vương ngài nửa đêm tới đây, không biết có điều gì chỉ dạy ? Văn Vương đáp :
– Vừa rồi tôi tản bộ ở sân sau, thấy có một ngôi sao băng bay xẹt qua nền trời, gợi lên một số tâm sự, khiến tôi không sao ngủ được, nên mới đến đây tìm gặp Thái Công để cùng nói chuyện giải khuây.
Thái Công nghe qua, bèn hiểu ý, nói :
– Lão thần cũng đang có nhiều ý nghĩ muốn nói cho chúa công biết, vậy là dù đôi bên không hẹn nhau trước, nhưng lại gặp nhau ở đây.
Dứt lời, Thái Công sai người hầu dâng trà và các loại trái cây lên Văn Vương, rồi vừa uống trà vừa nói chuyện.
Văn Vương nói :
– Trụ Vương của nhà Thương là một hôn quân vô đạo tất nhiên không tránh khỏi trời tru đất diệt. Nhưng triều đình nhà Thương đã có cơ nghiệp hơn sáu trăm năm, lại có một đạo quân hơn mười vạn người. Trong khi đó, Kỳ Châu chỉ là một bang quốc bé nhỏ, nếu đem so sánh với triều đình nhà Thương thì chênh lệch nhau một trời một vực. Vậy xin hỏi Thái Sư làm thế nào để thay đổi tình huống đó, giúp cho Kỳ Châu của trẫm có thể mau chóng cường thịnh lên ?
Khương Thái Công suy nghĩ một lúc, đáp :
– Triều đình nhà Thương có đất đai rộng rãi, truyền qua nhiều đời. Nhưng những gì mà họ tích lũy được, rốt cục rồi sẽ tan thành mây khói. Trong khi đó Châu Quốc đang âm thầm chuẩn bị, ánh sáng của nó rồi đây sẽ chiếu rọi khắp bốn phương. Đức hạnh của thánh nhân là cái gì độc đáo, và sẽ dần dần cảm hóa được bá tánh, quy tụ được nhân tâm. Vấn đề mà một thánh nhân luôn luôn suy nghĩ tới, chính là phương pháp để thu phục nhân tâm.
Văn Vương vội vàng hỏi :
– Phải áp dụng phương pháp nào, thì mới có thu phục được nhân tâm trong thiên hạ ?
Thái Công bắt đầu nói thao thao :
– Thiên hạ là thiên hạ của mọi người trong thiên hạ, chứ không phải thiên hạ của một cá nhân. Nếu có thể cùng hưởng chung lợi ích của thiên hạ với mọi người trong thiên hạ, thì có thể lấy được thiên hạ. Độc chiếm lợi ích trong thiên hạ, thì sẽ bị mất thiên hạ. Điều có thể cùng hưởng chung với bá tánh trong thiên hạ, chính là nhân ái. Ai có nhân ái, thì thiên hạ sẽ thuộc về người đó. Phải giúp cho bá tánh thoát khỏi nguy nan, giải thoát cho bá tánh khỏi mọi sự khốn khổ, tiêu trừ cho bá tánh tất cả những tai họa xảy đến, cứu mọi người ra khỏi chỗ hiểm nguy, thì đó là ân đức. Người thi ân ban đức thì thiên hạ sẽ thuộc về người đó. Mọi người ai cũng chán ghét sự chết chóc mà yêu quý sự sinh tồn, hoan nghênh ân đức và theo đuổi mọi lợi ích. Cho nên giúp cho mọi người trong thiên hạ được lợi ích, thì đó chính là Vương Đạo. Ai có thể thi hành Vương Đạo, thì thiên hạ sẽ thuộc về người đó.
Văn Vương vui vẻ nói :
– Lời nói của Thái Sư quá đúng. Trẫm nhất định sẽ ghi nhớ những lời nói này. Nhưng trẫm còn muốn biết thêm đạo lý cơ bản trong việc trị quốc. Muốn biết cách phải làm sao để một vị quân vương được mọi ngươi tôn kính, và bá tánh được một cuộc sống yên ổn vui tươi ?
Thái Công đáp :
– Chỉ có cách duy nhất là biết thương dân. Văn Vương lại hỏi :
– Phải làm như thế nào mới gọi là biết thương dân ?
Thái Công đáp :
– Phải biết xúc tiến việc sản xuất của lê dân, không bao giờ phá hoại họ. Phải biết bảo hộ lê dân, không bao giờ tùy tiện gây tổn thương cho họ. Phải mang đến cho lê dân những quyền lợi thiết thực và không bao giờ tước đoạt của họ. Phải giúp cho lê dân được an cư lạc nghiệp, không bao giờ làm cho họ phải đau khổ. Phải làm cho lê dân luôn được vui vẻ, không làm cho họ phải phẫn nộ. Văn Vương gật đầu nói:
– Phải ! Phải ! Thế còn gì nữa ? Thái Công lại nói tiếp:
– Làm một vị quân vương, cũng giống như phần đầu của một con rồng, luôn nhìn xa thấy rộng, quan sát tinh tường, tìm hiểu sâu sắc tất cả mọi vấn đề, và phải lắng nghe ý kiến của mọi người, biết xét đoán tình thế. Riêng nghi biểu thì phải trang nghiêm đường hoàng, bình tĩnh không hấp tấp, khiến mọi người có cảm giác nhà vua là một vị hoàng đế cao siêu như bầu trời không ai với tới, thâm sâu như đáy biển không ai có thể dò được. Một vị quân vương còn phải có khí chất tỉnh táo ôn hòa, đứng trước mọi việc bao giờ cũng sẵn sàng quyết đoán. Nhất là phải biết cùng bàn bạc với thần dân, không cố chấp ý kiến của riêng mình. Đối với mọi người, luôn phải khiêm tốn vô tư, xử sự luôn phải công bình, không thiên lệch. Văn Vương nghe xong, gật gù liên tiếp, nói :
– Lời nói của Thái Công đúng lắm! Đúng lắm! Nhưng Trụ Vương triều nhà Thương là người vô cùng tàn bạo, lạm sát không biết bao nhiêu người vô tội, nhân dân đang sống trong cảnh nước sôi, lửa bỏng, vậy hiền sĩ hãy giúp trẫm tiêu diệt ông ta, cứu nguy cho thiên hạ. Vậy, hiền sĩ cảm thấy thế nào ?
Thái Công đáp :
– Nhà vua trước tiên phải tự tu dưỡng đức hạnh, biết chiêu hiền đãi sĩ, biết ban ân huệ cho nhân dân, lấy đó thu phục nhân tâm, rồi bình tĩnh quan sát sự thay đổi của đạo trời và đạo người. Khi đạo trời chưa có dấu hiệu thì không thể nói đến việc cử binh chinh phạt. Khi đạo người chưa xuất hiện sự loạn lạc thì chưa thể sách hoạch việc hưng binh, cần chờ khi có thiên tai và nhân họa xuất hiện, thì mới có thể sách hoạch việc chinh phạt. Hiện nay Trụ Vương triều nhà Thương tuy u mê bạo ngược, nhưng vẫn chưa tới
trình độ chỉ cần xô là ngã. Riêng về phía chúng ta thì lực lượng vẫn chưa đủ sức lật đổ triều đình nhà Thương. Do vậy, tuyệt đối không thể nôn nóng, không thể hành động liều lĩnh được. Văn Vương gật đầu cho là phải, rồi lại hỏi :
– Xin Thái Sư nói thêm phải làm sao để ban hành chính lệnh ? Khương Thái Công đưa tay vuốt nhẹ hàm râu, nói :
– Việc ban hành chính lệnh phải được tiến hành từ trong sự cảm hóa âm thầm. Điều đó cũng giống như sự chuyển biến của thời gian là rất âm thầm, không ai cảm thấy được. Nhà vua cần phải suy nghĩ thật chín chắn tư tưởng “Vô vi nhi trị”. Cũng giống như trời và đất, không hề tuyên cáo quy luật của chính mình, nhưng vạn vật đều sinh trưởng đúng theo quy luật đó. Thánh nhân cũng không cần thiết phải tuyên cáo tư tưởng “vô vi nhi trị” của mình. Nhưng nó tự nhiên sẽ bộc lộ được thành tựu huy hoàng của nó. Nên chính trị tốt đẹp nhất, chính là nền chính trị biết thuận theo lòng dân. Đề cao những ý thức chính trị tốt đẹp để cảm hóa người dân, khiến người dân từ trong sự cảm hóa đó biết phục tùng chính lệnh. Như vậy thì thiên hạ sẽ được yên ổn. Đó chính là “đức chính” (sự cai trị phù hợp với đạo đức) của một thánh nhân.
– Đúng ! Đúng ! – Văn Vương buột miệng khen liên tiếp – Thế thì tại sao nhà vua lại để mất đi khả năng khống chế đối với quốc gia ?
– Đó là do dùng người không đúng ? – Thái Công nói thẳng vào vấn đề – Nhà vua cần tuyển chọn những người có đầy đủ sáu tiêu chuẩn, và phải nắm chắc ba sự kiện trọng đại, thì mới không dẫn tới tai họa mất nước.
– Sáu điều tiêu chuẩn đó có nội dung ra sao? – Văn Vương vội vàng lên tiếng hỏi.
– Một là Nhân, hai là Nghĩa, ba là Trung, bốn là Tín, năm là Dũng, sáu là Trí – Thái Công đáp.
– Phải làm thế nào mới tuyển chọn được những người phù hợp với sáu tiêu chuẩn nói trên ?
– Tạo điều kiện cho họ trở thành giàu có, xem phải chăng họ có thái độ bất chấp lễ giáo và pháp luật. Nếu không, thì đó là người Nhân. Ban cho họ địa vị, xem họ phải chăng trở thành kiêu ngạo. Nếu không thì đó là người Nghĩa. Giao cho nhiệm vụ trọng đại, xem họ phải chăng có thể kiên quyết hoàn thành mà không thay đổi ý chí. Nếu có thể, thì đó là người Trung. Giao cho họ xử lý vấn đề, xem họ phải chăng có thủ đoạn dối trên gạt dưới.
Nếu không, thì đó là người Tín. Dồn họ vào một hoàn cảnh nguy hiểm, xem họ phải chăng đứng trước sự nguy hiểm thì tỏ ra sợ sệt. Nếu không, thì đó là người Dũng. Giao cho họ xử lý những việc chuyển biến bất ngờ, xem họ phải chăng ứng phó một cách bình tĩnh. Nếu có, thì đó là người Trí.
Văn Vương lại hỏi :
– Ngoài việc dùng người, còn phải chú ý đến vấn đề gì khác nữa ? Thái Công trịnh trọng đáp :
– Không nên trao quyền xử lý ba sự kiện trọng đại cho người khác.
– Đó là ba sự kiện trọng đại nào. – Văn Vương hỏi.
– Nông, Công, Thương. Tổ chức tất cả nông dân lại rồi cho họ tập trung ở vào một làng, để họ cùng nhau hợp tác, thì lương thực tự nhiên sẽ đầy đủ. Tổ chức những người công nhân lại để họ quần cư tại một nơi, cùng nhau giúp đỡ hợp tác, thì đồ dùng tự nhiên sẽ đầy đủ. Tổ Chức những thương nhân lại và tập trung cho họ ở vào một chợ, để họ có thể trao đổi với nhau những gì mình có, thì việc tài chánh và mậu dịch tự nhiên sẽ sung túc. Không bao giờ nên làm rối loạn những khu vực kinh tế này, cũng không nên tách rời gia tộc của họ ra. Đó gọi là “Tam bảo”.
– Những người có đầy đủ sáu điều kiện tiêu chuẩn nói trên được trọng dụng, cũng như ba đại sự nói trên được hoàn thiện, thì sự nghiệp của nhà vua sẽ hưng thịnh, quốc gia sẽ được yên ổn lâu dài.
– Một vị quân vương nên tôn sùng ai, nên áp chế ai, sử dụng ai, loại trừ ai, nghiêm cấm việc gì, chặn đứng việc gì ? – Văn Vương lúc đó nôn nóng muốn đem hết tất cả những vấn đề thắc mắc từ bấy lâu nay trong lòng mình để hỏi Khương Tử Nha.
– Một vị quân vương nên tôn sùng những người có đầy đủ tài đức và áp chế những người bất tài lại thiếu đức. Nên trọng dụng những trung thần, biết giữ chữ tín và có thái độ thành thực, trừ đi những phường gian trá, hư ngụy. Nghiêm cấm tất cả những hành vi bạo loạn, và chặn đứng nếp sống xa hoa.
– Tại sao một vị quân vương thường cố gắng hết sức để tuyển chọn người hiền tài, nhưng trong thực tế thì lại không thu được hiệu quả tốt đẹp như mong muốn ?
– Nhà vua thường cho rằng, một người được nhiều người khen ngợi là hiền nhân, còn người thường bị mọi người chê trách là không phải hiền nhân. Do vậy, những người có vây cánh đông thì thường được trọng dụng, người ít vây cánh thì bị bài xích. Thế lực gian tà bao giờ cũng kết thành bè đảng để mưu cầu tư lợi, nên hiền nhân luôn bị mai một, còn trung thần vô tội thì bị dồn vào chỗ chết. Bọn gian thần luôn lấy hư danh của họ để dối gạt bên trên, tranh thủ được chức tước lớn. Một xã hội như vậy, tất nhiên sẽ dẫn đến hỗn loạn. Quốc gia chắc chắn sẽ bị diệt vong.
– Phải làm thế nào để giữ được đầu óc tỉnh táo giúp cho quốc gia luôn được yên ổn và được trường tồn ?
– Trụ Vương triều nhà Thương chỉ biết quốc gia mình đang tồn tại, chứ không biết nó sắp diệt vong; chỉ biết vui chơi thỏa mãn, chứ không biết tai họa sắp giáng xuống đầu. Quốc gia được trường tồn hay không, là do khi sống trong hoàn cảnh yên vui, có biết nghĩ tới lúc nguy cấp hay không. Một nhà vua phải chăng có thể được vui vẻ lâu dài, là xem nhà vua đó trong khi vui vẻ thì có nghĩ đến lúc buồn lo hay không. Ngài đã có thể nghĩ với nhiều vấn đề cơ bản đối với sự tồn vong của một quốc gia như thế, vậy đâu sợ còn có chuyện gì xảy ra nữa ?
Nghe đến đây, Văn Vương đã hiểu mọi lý lẽ. Bao nhiêu điều thắc mắc cũng được giải tỏa rõ ràng. Nhà vua cảm thấy hết sức khâm phục Khương Thái Công, cho nên quên mất cái lễ giữa quân thần, vội vàng quỳ xuống trước mặt vị Thái Sư của mình sụp lạy, miệng nói:
– Lời nói của Thái Sư hết sức tinh tường, hết sức sâu sắc, hết sức chính xác. Trẫm nhất định sẽ không bao giờ quên, và sẽ dùng nó làm nguyên tắc để cai trị thiên hạ – Nói tới đây nhà vua quay sang Thái tử Cơ Phát nói tiếp – Con phải ghi nhớ mãi lời nói của Thái Sư. Đây chính là chân lý mà nghìn năm không bao giờ thay đổi!
Khương Thái công thấy cha con của Văn Vương đều quỳ xuống trước mặt mình, nên cũng vội vàng quỳ theo, nói :
– Chúa công và Thái tử xin mau đứng dậy, làm như thế khiến lão thần thật bối rối.
Văn Vương đứng lên, nói:
– Nghe qua lời nói trên của ngài, còn hơn đọc mười năm sách vở. Trẫm có một ý nghĩ, là muốn để cho Thái tử Cơ Phát lạy ngài làm Thượng phụ, không rõ Thái Sư có cho phép không ?
Khương Thái Công từ chối liên tiếp, nhưng thấy Văn Vương vẫn kiên quyết yêu cầu, nên đành phải bằng lòng. Thái tử Cơ Phát liền thi lễ phụ tử trước mặt Thái Công. Thái Công tiếp nhận Thái tử quỳ lạy xong, nói :
– Thần nguyên chỉ là một người quê mùa lưu lạc, nay được chúa công và Thái tử hậu ái như thế này, thần nguyện sẽ suốt đời làm thân trâu ngựa, cúc cung tận tụy cho đến chết mới thôi, để đền đáp lại với triều đình nhà Châu !
Vừa nói, hai hàng nước mắt của Khương Thái Công cũng trào ra ướt cả mặt. Văn Vương xúc động nói :
– Trẫm được Thái Sư, thật chẳng khác nào cọp lại thêm cánh, cá được nước sâu !
Lúc bấy giờ, chân trời phía Đông đã bắt đầu sáng. Vầng thái dương màu đỏ đang từ từ nhô cao. Những tia nắng bình minh rọi thẳng vào khung cửa sổ, và chiếu sáng lên gương mặt đầy xúc động, hết sức vui tươi của Văn Vương, Thái tử, và Thái Công.
5. Diệt Trừ Vây Cánh
Tại vùng núi Lục Bàn Sơn nằm về phía Bắc Tây Kỳ, có một nước nhỏ tên gọi Mật Tu Quốc. Người Mật Tu lấy nghề chăn nuôi làm chính, giỏi việc cỡi ngựa bắn cung. Thường vượt qua khu núi phía Bắc xâm nhập vào Kỳ Châu để cướp lương thực, bắt tráng đinh. Họ đến rất nhanh và rút lui cũng rất nhanh, rất khó đối phó, trở thành mối họa đáng lo cho Châu Văn Vương.
Mùa Thu năm nay, khi đến thời điểm lúa mạch chín, có tin ngoài biên ải báo về cho biết, hai Vương tử của Mật Tu Quốc là Tây Cát và Hải Nguyên, dẫn một toán binh mã vượt qua quan ải, tiến sâu vào lãnh thổ nhà Châu, rồi tiếp tục tiến về hướng Tây Kỳ. Châu Văn Vương vội vàng tìm Khương Thái Công để bàn kế hoạch phá địch. Khương Thái Công nói :
– Kình địch của Kỳ Châu tại biên cương phía Tây Bắc là Mật Tu, còn kình địch ở phía Đông chính là Sùng Quốc. Hai mối hại này nếu không trừ thì không thể khống chế được vùng đất Quan Trung. Một khi không thể khống chế được Quan Trung thì cũng không thể tiến hành đông chinh để phạt Trụ. Nếu không phạt Trụ, thì ý chí muốn tiêu diệt nhà Thương của đại vương cũng không thực hiện được. Đối với việc công phạt nước Mật Tu cũng như Sùng Quốc, thần đã có suy nghĩ đến từ lâu rồi. Cho dù họ không chủ động
tìm tới xâm phạm ta, ta cũng phải tìm họ để đánh. Nay chúng chủ động kéo tới cửa ta, thì đấy quả là dịp may trời cho. Khương Thái Công bèn kề miệng sát tai Văn Vương nói nhỏ một lúc. Văn Vương nghe qua cả mừng, nói :
– Thượng phụ đúng là người tính toán như thần, vậy cứ theo kế sách đó mà hành sự.
Khương Thái Công biết hai Vương tử của nước Mật Tu kéo binh đến xâm phạm, mục đích chủ yếu là cướp lương thực tại lãnh thổ nhà Châu. Do vậy, ông bèn dặn dò Đại tướng Nam Cung Thích và Võ Cát, đối với việc chống lại Tây Cát và Hải Nguyên, không nên dàn binh đánh nhau, cũng không nên giết hại họ, mà phải tập trung lương thực lại, rồi phái bộ đội bảo vệ, giả vờ rút lui để dụ chúng tiến sâu vào khu vực bình nguyên của nhà Châu rồi bày mưu bắt sống chúng. Nam Cung Thích và Võ Cát tuân lệnh lui đi. Trong khi đó, Khương Thái Công dẫn binh mã đến cửa núi mà quân đội của Tây Cát và Hải Nguyên phải đi ngang, đào hầm làm bẫy, ngụy trang rất khéo léo, rồi cho bênh sĩ mai phục trong rừng hai bên núi, chờ đợi binh mã của nước Mật Tu kéo tới.
Ít hôm sau, Nam Cung Thích và Võ Cát dẫn binh mã bảo vệ những cổ xe lương thực rút lui đến trước cửa núi. Tây Cát và Hải Nguyên thúc binh mả đuổi theo không buông tha. Lúc bấy giờ Nam Cung Thích bèn xuống lệnh cho bộ đội dàn trận chặn quân địch. Chờ cho từng cỗ xe chở lương thực vượt qua hẻm núi, xong thì cánh quân chận đường này cũng nhổ trại rút lui theo.
Tây Cát và Hải Nguyên không biết đây là mưu kế, nên vẫn tiếp tục thúc quân đuổi theo. Khi họ vừa xông vào cửa núi thì Tây Cát và Hải Nguyên cũng như binh sĩ tùy tùng của chúng đều rơi cả xuống hầm sâu.
Quân đội Mật Tu thấy thế, rối loạn cả hàng ngũ. Trong khi họ chưa biết ất giáp gì, thì quân đội nhà Châu mai phục hai bên rừng núi, vừa hò reo vừa tràn ra sát phạt. Quân Châu còn dùng câu liêm để móc Tây Cát và Hải Nguyên kéo lên, bắt sống họ trói lại. Số binh sĩ của hai Vương tử Mật Tu này lớp chết, lớp bị thương, lớp bị bắt sống, chỉ còn một thiểu số tuôn rừng chạy được trở về Mật Tu.
Tây Cát và Hải Nguyên bị giải đến quân trướng của nhà Châu để gặp Khương Thái Công. Hai người thấy Khương Thái Công, không chịu quỳ xuống, mà to tiếng mắng chửi Khương Thái Công đã đùng gian kế để bắt họ, không kể là hảo hán. Khương Thái Công cũng to tiếng quát nạt họ một lúc, rồi sai người áp giải cả hai nhốt vào đại lao. Riêng đối với những tù binh bị bắt sống khác, Khương Thái Công ra lệnh thả cho họ về nước để gọi quốc vương của nước này đến xin lỗi. Bằng không, thì nhà Châu sẽ giết chết hai Vương tử của họ.
Quốc vương Mật Tu được binh sĩ bại trận chạy trở về báo cho biết hai vương tử đã bị nhà Châu bắt sống, thì trong lòng hết sức lo sợ, định đưa toàn lực binh mã còn lại ở trong nước, tiến đánh Tây Kỳ để cứu hai Vương tử. Nhưng vị quân sư của Mật Tu bèn lên tiếng can ngăn:
– Vương tử tuy đã bị bắt sống, nhưng người Châu không giết họ ngay đâu. Vậy kế hay nhất hiện nay là Đại vương nên chọn một nghìn con ngựa tốt, một nghìn bò dê, lại mang theo vàng bạc, châu báu, đến Tây Kỳ để nài nỉ, không chừng người Châu sẽ nể tình Đại vương mà thả hai vị Vương tử ra. Riêng tôi sẽ dẫn theo ngàn tinh binh đi tập hậu, để bảo vệ Đại vương, đề phòng bất trắc.
Quốc vương nghe qua lời nói của quân sư, thấy có lý nên cấp tốc sai người chọn ngựa, bò, dê, và vàng bạc châu báu, chờ ngay hôm sau sẽ đưa đến Tây Kỳ.
Thám tử của quân Châu sau khi dò xét biết được chuyện này, bèn báo với Khương Thái Công. Thái Công lấy làm vui mừng, nói:
– Kế ta đã thành công rồi !
Chỉ một vài hôm sau, Quốc vương Mật Tu đã đến Tây Kỳ. Văn Vương và Khương Thái Công đích thân ra thành nghênh đoán ông ta, mở tiệc khoản đãi rất thạnh tình. Trong khi dự tiệc, Quốc vương Mật Tu nói với Văn Vương :
– Hai tên khuyến tử của tôi không kể chi phép nước, riêng tôi lại không biết dạy con, nên đã gây ra đại họa như thế này. Nay đích thân tôi tới để xin lỗi với Văn Vương, mong Văn Vương mở lượng khoan hồng, thả hai thằng khuyến tử của tôi ra. Được vậy, thì từ nay trở đi, tôi bằng lòng vĩnh viễn kết làm đồng minh với người Châu.
Văn Vương chưa kịp nói gì thì một vị võ tướng có mặt tại bàn tiệc, đã tuốt gươm nghe một tiếng rẻng gằn giọng nói :
– Mật Tu Quốc đã bao phen xâm phạm bờ cõi Kỳ Châu, quấy nhiễu bá tánh của nhà Châu ở vùng biên cảnh, cướp đoạt nhiều lương thực cửa chúng tôi. Những tội lỗi đó chính bản thân Quốc vương Mật Tu cũng khó chạy chối ! Vậy hôm nay hai tên thảo tặc đã bị bắt sống, thì cần phải mang ra chém đầu, có đâu lại tha một cách dễ dàng như vậy ?
Vị võ tướng lên tiếng nói đó chính là Võ Cát.
Các tướng có mặt nghe Võ Cát nói có lý, cũng đồng thanh nói to :
– Hai tên thảo tặc này phải đem ra chém đầu mới được !
Họ vừa nói vừa tuốt kiếm ra cầm chặt trong tay, đôi mắt trợn tròn giận dữ, gầm hét rung chuyển cả buổi tiệc, ánh kiếm lập lòe, đằng đằng sát khí, khiến vua Mật Tu không khỏi sợ hãi đến toát mồ hôi, hai chân phát run, miệng há hốc, liếc mắt theo dõi thái độ của Văn Vương, chờ đợi nhà vua quyết định.
Văn Vương nói :
– Không phải tôi không nể tình Đại vương, nhưng vì quí quốc trong nhiều năm qua thường kéo quân tới quấy nhiễu, khiến nhân dân tề quốc vô cùng phẫn nộ. Nếu không trừng trị hai vị công tử của quý quốc, thì e rằng nỗi bực tức của bá tánh khó xóa bỏ được !
Quốc vương Mật Tu nghe Văn Vương nói như vậy, đang định to tiếng cãi lại, thì bỗng có một thủ hạ của ông ta nhẹ chân đi vào báo cho biết, năm trăm binh mã tinh nhuệ mà quân sư dẫn theo, đã lọt ổ mai phục của quân Châu và đại bại, bỏ chạy trở về nước hết rồi.
Quốc vương Mật Tu nghe vậy, không khỏi kinh hoàng thất sắc, vội vàng quỳ mọp trước mặt Văn Vương, van xin :
– Tiểu nhân thật đáng chết, vậy xin Đại vương tha thứ. Nếu tôi bị mất đi hai công tử này, thì có thể nói hậu duệ của Mật Tu sẽ không còn nữa. Vậy xin ngài hãy niệm tình, từ nay nước Mật Tu chứng tôi bằng lòng trở thành một nước phụ thuộc của Kỳ Châu, nhất nhất đều tuân theo mệnh lệnh của Đại vương sai khiến.
Đến chừng đó Văn Vương mới đỡ Quốc vương Mật Tu đứng lên, ngỏ ý bằng lòng cùng nhau thương lượng. Khương Thái Công thấy thời cơ đã đến, bèn sai người lấy giấy bút để Quốc vương Mật Tu viết lại những lời mình đã nói, ký tên, lăn tay để làm bằng chứng, rồi mới nói với Quốc vương Mật Tu :
– Không phải tệ quốc ép uổng chi ngài, mà thực ra vì thái tử của quý quốc đã hành sự quá đáng. Nay Đại vương đã bằng lòng ký kết làm đồng minh với Kỳ Châu, thì đôi bên trở thành người một nhà, vậy chúng tôi đâu lại làm hại quý công tử nữa ? Tuy nhiên, muốn thả hai người ra, mong Đại vương sẽ giúp cho Kỳ Châu một chuyện nhỏ.
Quốc vương vội vàng hỏi:
– Giúp cho chuyện gì ? Xin nói rõ !
Thái Công nói :
– Sùng Quốc là nước từ bấy lâu nay giao hảo với quý quốc. Vậy xin ngài hãy thuyết phục Sùng Quốc, để nước này giữ thái độ trung lập trong mối tương quan giữa nhà Châu với triều đình nhà Thương, đừng xem chúng tôi như thù địch. Được vậy, chúng tôi sẽ thả hai vị công tử ra ngay.
Quốc vương Mật Tu nói :
– Quốc quân của Sùng Quốc là Sùng Hầu Hổ, tánh tình hung bạo, lại có mối quan hệ rất mật thiết với Trụ Vương triều nhà Thương. Trụ Vương ra lệnh cho ông ta theo dõi mọi hành động của quý quốc, đồng thời, cho phép ông ta được quyền cử binh thảo phạt quý quốc bất cứ lúc nào. Nếu tôi đến đấy du thuyết, ông ta chẳng những không bằng lòng, mà còn xem tôi như là thù địch, vậy tôi làm sao dám đi ?
Khương Thái Công nói :
– Chuyện đó chẳng sao. Tôi sẽ phái ba nghìn tinh binh gia làm quân nước Mật Tu, và dẫn luôn một nghìn con ngựa tốt, hai nghìn bò dê và tất cả những vàng bạc châu báu của quý quốc mang đến tặng cho chúng tôi, sang tặng lại cho Sùng Quốc, xem đó là lễ vật ra mắt. Ngài đến đó sẽ báo cho họ biết, là muốn kết làm đồng minh với họ, rồi chờ tình hình cụ thể mà hành sự.
Quốc Vương Mật Tu nghe đến đây, đã biết Khương Tử Nha muốn mình đi làm chuyện gì. Nhưng giờ đây mình đang là một tên tù binh của họ, hơn nữa, hai công tử cũng đang ở trong tay họ, vậy nếu không tuân lệnh thì tính mạng của cha con sẽ khó bảo toàn. Cho nên Quốc vương Mật Tu đành phải nghe theo.
Quốc vương Mật Tu dẫn ba ngàn tinh binh được cải trang thành quân đội của Mật Tu, mang theo cả ngàn con ngựa tốt và hai ngàn con bò dê, cũng như tất cả châu báu vàng bạc, cùng lên đường đi tới Sùng Quốc. Người tiên phong đã đến báo với Sùng Quốc trước, báo là Quốc vương Mật Tu đích thân đưa lễ vật đến để giao hảo. Sùng Hầu Hổ trước đây đã biết quốc vương Mật Tu là người đôn hậu, thành thực, nên không có ý hoài nghi chi cả. Riêng đối với ba nghìn binh mã mà ông ta dẫn theo, Sùng Hầu Hổ cũng cho rằng vì đường xa, phải đi ngang nhiều vùng của người Châu thống trị, nhất là phải hộ tống một nghìn con ngựa tốt, hai nghìn bò dê, cũng như bao nhiêu vàng bạc châu báu, vậy họ dẫn theo binh mã như thế này cũng là hợp lý thôi. Nhưng, Sùng Hầu Hổ chỉ cho phép một nghìn trong số ba nghìn binh mã của Quốc vương Mật Tu, được vào thành, còn hai nghìn kia thì đóng ở bên ngoài. Quốc vương Mật Tu đành phải tuân theo sự sắp xếp của Sùng Hầu Hổ.
Võ Cát lẫn lộn trong số ba nghìn binh sĩ đi theo. Ông ta nghe Sùng Hầu Hổ cho phép một nghìn binh sĩ được vào trong thành thì hết sức vui mừng, vội vàng trao hai nghìn binh sĩ còn lại cho tướng lĩnh khác chỉ huy, còn mình chọn một nghìn binh sĩ tinh nhuệ đi vào trong thành, chờ thời cơ mà hành sự. Ba hôm sau, quân thám báo bỗng về báo lại với Sùng Hầu Hổ, cho biết Tây Kỳ đang phái chừng một vạn binh mã kéo đến Sùng Thành. Sùng Hầu Hổ cả kinh, ra lệnh cho tướng sĩ lo giữ chặt cửa thành, tăng cường tuần tiễu, cảnh giác quân Châu tấn công thành. Công việc bố trí vừa xong, thì quân Châu đã kéo tới dưới chân thành. Khương Thái Công đích thân chỉ huy toán quân này, nhưng ông không ra mặt, chỉ để cho Đại tướng quân Nam Cung Thích lên tiếng khiêu chiến, và đòi Sùng Hầu Hổ phải giao trả Quốc vương Mật Tu, vì nước Mật Tu đã cướp đi một số lương thảo của Tây Kỳ. Nhưng, Sùng Hầu Hổ làm sao chịu nghe theo ? Ông ta lên mặt thành, mắng chửi Tây Kỳ không biết tôn trọng pháp chế của nhà Thương, tùy ý xua quân thảo phạt các chư hầu, và hăm dọa quân Châu nếu không sớm rút trở về, thì ông ta sẽ báo lên Trụ Vương, cử đại binh của Vương thất đến chinh phạt Tây Kỳ.
Nam Cung Thích không hề để ý chi tới những lời nói của Sùng Hầu Hổ, chỉ xuống lệnh cho binh sĩ ở dưới thành liên tục mắng chửi ông ta. Khương Thái Công bí mật liên hệ với hai nghìn binh sĩ đang đóng sẵn ở bên ngoài Sùng Thành, lại phái người lẻn vào để liên lạc với Võ Cát, hẹn canh ba đêm nay, đốt lửa làm hiệu, tấn công chiếm Sùng Thành bằng cách ngoại công nội ứng.
Binh sĩ của Sùng Quốc đã chửi lộn với quân Châu suốt cả một ngày, đêm đến cảm thấy quá mệt mỏi nên trời vừa sụp tối là họ đã tìm chỗ nghỉ ngơi, vì cho rằng quân Châu đã lui ra xa mười dặm, hạ cờ im trống, chỉ còn để lại một thiểu số quân tuần tiễu, chắc chắn trong đêm nay sẽ không có hành động gì. Sau nửa đêm, do mọi người quá mỏi mệt, nên đã buông lơi sự cảnh giác.
Trong khi đó, thì quân Châu đã âm thầm kéo tới sát chân thành. Một vạn binh mã của quân Châu cộng thêm hai nghìn binh mã đã kéo tới trước vây chặt lấy bốn cửa thành. Khi gần với canh ba, thì toàn quân hò reo dữ dội, rung chuyển cả bầu trời. Quân dân của Sùng Quốc đều hoảng kinh. Sùng Hầu Hổ vội vàng phái người đi lo việc phòng thủ khắp bốn cửa thành. Nhưng các tướng sĩ đều bảo là không đủ người để bố trí phòng thủ. Do vậy, Sùng Hầu Hổ vội vàng bảo Quốc vương Mật Tu cho một ngàn binh sĩ dẫn theo, phụ lo việc canh phòng bốn cửa thành. Quốc vương Mật Tu đồng ý ngay và trong bụng nghĩ thầm : Phen này thì Sùng Hầu Hổ sẽ không còn manh giáp. Thế là ông ta bí mật chuẩn bị, kế thoát thân cho mình.
Võ Cát nghe nói Sùng Hầu Hổ sử dụng một ngàn binh mã của mình để giữ thành, trong lòng không khỏi thầm vui mừng. Ông lập tức chia một nghìn binh mã ra giữ ở bốn cửa Đông, Tây, Nam, Bắc cả ngôi thành. Cứ mỗi cửa được cắt cử hai trăm năm chục người để hợp sức phòng thủ. Đồng thời, ông cũng giao kết trước với quân Châu ở bên ngoài, là sẽ đốt lửa làm hiệu, mở toang cửa thành để cho quân Châu tràn vào.
Đến canh ba, quân Châu ở bên ngoài bốn cửa thành đồng loạt đốt lửa. Ngọn lửa bốc cao ngất trời, soi sáng bên ngoài lẫn bên trong thành như ban ngày.
Quân Châu có mặt trong thành bèn giết chết quân giữ thành của Sùng Quốc, rồi mở toang bốn cửa thành ra để quân Châu ở bên ngoài tiến vào. Tiếng hò reo sát phạt rung chuyển cả bầu trời. Chờ khi Sùng Hầu Hổ biết sự thật, thì khắp cả ngôi thành đâu đâu cũng là quân Châu. Ông ta vội vàng đi tìm Quốc vương Mật Tu, nhưng không thấy quốc vương đâu cả, đoán biết chuyện này có điều khả nghi. Nhưng ông ta hối hận cũng không còn kịp nữa. Trong khi Sùng Hầu Hổ tuốt gươm chuẩn bị tự sát, thì Võ Cát đã nhanh nhẹn xông tới, đoạt lấy thanh gươm, rồi bắt sống ông ta trói lại.
Khương Tử Nha tiến vào Sùng Thành, lập tức xuống lệnh cho tam quân dập tắt ngay ngọn lửa rồi dán bản yết thị để trấn an dân chúng, và xuống lệnh cho quân Châu không được khuấy phá bá tánh trong thành, không được lạm sát những người vô tội. Sáng sớm ngày hôm sau, Văn Vương cũng dẫn Thái tử Cơ Phát và những người hộ vệ Vương thất cùng tiến vào Sùng Thành.
Sau khi tiến vào thành, nhà vua xuống lệnh đem chém Sùng Hầu Hổ để thị uy chúng, rồi ra lệnh mở kho lương thực cứu tế cho bá tánh trong thành. Tất cả bá tánh của Sùng Quốc, không ai là không vui mừng. Họ vỗ tay hò reo, tung hô vạn tuế inh ỏi. Văn Vương, Thái tử Cơ Phát và Khương Thái Công thấy thành trì của ngôi Sùng Thành cũng như hoàn cảnh chung quanh rất đẹp, đúng là một địa điểm nhân kiệt địa linh. Nếu so với Tây Kỳ, thì tốt hơn rất nhiều. Hơn nữa, Sùng Thành lại cách kinh đô Triều Ca của triều nhà Thương gần hơn Tây Kỳ, dễ dàng nghe ngóng tin tức. Đối với việc chuẩn bị chinh phạt Trụ Vương là rất có lợi. Do vậy, Văn Vương và Cơ Phát bèn thương nghị với Khương Thái Công, dời kinh đô của nhà Châu từ Tây Kỳ đến Sùng Thành. Do Sùng Thành nằm sát bờ sông Phong Thủy, nên cũng có tên là Phong Đô. Từ đó, Kỳ Châu đã khống chế toàn bộ Trung Nguyên, oai danh nổi như cồn.
6. Văn Vương Gởi Gấm Con Côi
Châu Văn Vương tiếp nhận sách lược “không ủng hộ Ân Trụ, tiêu diệt vây cánh” (Ty sự ân Trụ, tiễn kỳ vủ dực) của Khương Thái Công, trước tiên hàng phục nước Mật Tu ở tại lưu vực Kinh Thủy, xóa bỏ mối lo quan trọng của triều nhà Châu, rồi lại đánh chiếm Sùng Quốc tại khu vực Phong Thủy, mở thông con đường phát triển về hướng Đông. Như vậy, nhà Châu đã hoàn toàn khống chế được vùng Trung Nguyên. Trên cơ sở đó, Khương Thái Công đích thân dẫn quân đội viễn chinh đi đánh Lê Quốc ở vùng núi Lữ Lương Sơn, và Hàn Quốc ở vùng Hà Nam, lần lượt xâm chiếm lãnh thổ của triều đình nhà Thương, liên tục mở rộng chu vi cương thổ của mình.
Những điều ước mơ của Văn Vương trong mấy chục năm qua đã lần lượt được thực hiện. Nhà vua biết công lao này là của Thái Sư Khương Tử Nha, ông cũng biết tuổi mình đã cao, vậy hoài bão to lớn tiêu diệt triều đình nhà Thương chắc không thể thực hiện được. Sứ mệnh trọng dại này chỉ có thể chuyển giao lại cho con trai là Cơ Phát để hoàn thành. Nhưng, nếu không có Khương Thái Công thì Cơ Phát cũng khó làm tròn được trọng trách nói trên. Cho nên nhà vua muốn tìm cách để thắt chặt mối quan hệ giữa Thái tử và Thái sư, làm cho Khương Tử Nha một lòng một dạ phục vụ nhà Châu đến cùng. Nhà vua biết Thái Sư có một người con gái tên gọi Ấp Khương, dung nhan xinh đẹp lại giỏi cả văn lẫn võ. Đến nay vẫn chưa hứa gả cho ai. Nếu hỏi Ấp Khương cho Thái tử làm vợ, thì chẳng phải Thái Sư đã trở thành nhạc phụ của Thái tử rồi đấy sao ? Nếu Thái tử là con rể của Thái Sư, thì Thái Sư chả lẽ lại không dốc hết tâm sức để bảo vệ giang sơn cho con rể của mình ? Suy nghĩ tới đây, nhà vua cảm thấy rất hài lòng, nên phá lên cười một cách hả hê.
Giữa lúc đó thì bà vợ của Văn Vương bước vào. Thái hậu bưng trà vào cho Văn Vương, hỏi tại sao nhà vua lại cười vui như vậy. Văn Vương bèn đem ý nghĩ trong lòng mình nói ra cho Thái hậu nghe. Thái hậu cũng ngỏ ý tán thành.
Văn Vương và Thái hậu bèn cho người gọi Thái tử Cơ Phát đến, nói rõ chuyện nhà vua định hỏi con gái của Thái Sư cho Thái tử làm vợ. Riêng Thái tử Cơ Phát từ trước cũng đã có ý muốn cưới Ấp Khương, nhưng vì chưa hiểu ý của Văn Vương ra sao, nên từ bấy lâu nay không dám đề xuất. Nay thấy phụ vương và mẫu hậu chủ động nêu ra việc này, đúng với ý muốn của mình, nên trong lòng hết sức mừng rỡ.
Qua ngày hôm sau, Văn Vương đích thân đến phủ riêng của Thái Sư, ngỏ ý với Khương Thái Công muốn cưới Ấp Khương cho Thái tử làm vợ. Thái công cũng vui mừng đồng ý. Nhưng Khương Thái Công không quên dè dặt, nói :
– Tiểu nữ là con gái quê mùa, không biết đại lễ, chỉ e sau này có điều xúc phạm đến sự tôn nghiêm của Thiên tử. Vậy mong sau khi kết hôn, nếu có chỗ sai sót, mong hoàng thượng và Thái hậu chỉ dạy cho nó.
Văn Vương đáp:
– Ấp Khương là một cô gái vừa có tài vừa có sắc, lại giỏi cả văn lẫn võ. Từ lâu tôi đã nghe tiếng, nếu được kết tóc xe tơ với Thái tử Cơ Phát, thì đúng là xứng đôi vừa lứa biết bao nhiêu.
Thế rồi nhà vua chọn ngày lành tháng tốt, cử đại phu Tán Nghi Sinh làm ông mai để đi nộp sính lễ, chờ ngày nghinh hôn.
Chỉ ít lâu sau, ngày lành tháng tốt đã tới, Văn Vương xuống chiếu chỉ ngỏ ý, đây tuy là một cuộc hôn nhân của hoàng gia, nhưng vẫn được tiến hành theo phong tục trong dân gian, để cho mọi người thấy nhà vua sẵn sàng hòa mình chung vui với bá tánh. Bá tánh ở Tây Kỳ nghe được tin này, đều truyền tụng nhau như một giai thoại.
Tháng tư năm đó là sinh nhật thứ tám mươi của Châu Văn Vương, đồng thời, cũng là sinh nhật thứ chín mươi của Khương Thái Công. Thái tử Cơ Phát và người trong hoàng gia quyết định mở một cuộc kháng chúc long trọng. Họ gộp chung hai ngày sinh nhật của hai cụ lại làm một, gọi là “Song ông thọ”.
Ngày hôm đó, tại Phong Đô mở tiệc mừng, trống kèn ồn ào náo nhiệt. Văn Vương cảm thấy rất vui sướng, nên cùng Thái Công nâng ly uống rất hả hê. Sau ba tuần rượu, Thái tử Cơ Phát, Châu Công Đản, Triệu Công Thích và phu nhân của họ lần lượt bước ra dâng rượu chúc mừng hai cụ già. Kế đó, những người em của Thái tử Cơ Phát như Thúc Tiên, Thúc Độ, Thúc Võ, cũng lần lượt bước ra dâng rượu chúc thọ cho Văn Vương và Thái Công.
Khi Văn Vương tiếp nhận ly rượu chúc thọ của Thúc Tiên, thì bỗng nhớ lại một chuyện cũ trước đây, nên tự nhiên đầu óc choáng váng, xây xẩm mặt mày, không còn ngồi vững, và đã ngả quỵ sang một bên. Thái tử Cơ Phát hốt hoảng bước tới đỡ lấy Văn Vương, dìu vào giường nằm nghỉ. Ngự y trong triều đình cũng vội vàng bắt mạch lo việc chữa trị. Sau khi bắt mạch xong, ngự y bước ra nói với Khương Thái Công và số người của Thái tử Cơ Phát :
– Đại vương khí huyết đều suy nhược, mạch nhảy yếu lại bị tắc nghẽn, vậy phải dùng toa thuốc “hoạt huyết hóa ứ, lý khí chỉ thống” để trị liệu. Nhưng vì nhà vua tuổi đã cao, tim rất yếu, nên cũng cần phải chuẩn bị chuyện bất trắc, không nên xem thường.
Dứt lời, ngự y viết toa bốc thuốc, cho người mang đi sắc.
Văn Vương sau mấy ngày liên tiếp nằm thiêm thiếp, giờ đây đã bắt đầu tỉnh lại. Khương Thái Công thấy Văn Vương hồi tỉnh, thở phào nói :
– Đại vương đã tỉnh lại rồi ! Tỉnh lại rồi ! ôi ! Làm lão thần khiếp sợ quá !
Văn Vương mở mắt nhìn, thấy Khương Thái Công, Thái tử Cơ Phát và Thái hậu đều có mặt trước giường, bèn chỏi tay muốn ngồi dậy. Thái tử Cơ Phát vội vàng ngăn Văn Vương, bảo ngự y có dặn là tuyệt đối không được cử động, phải nằm yên để tịnh dưỡng. Văn Vương không nghe, nhất định đòi ngồi lên. Thái tử Cơ Phát đành phải đỡ phụ vương ngồi dậy, rồi dùng một chiếc mền dầy chêm ở sau lưng, để Văn Vương tựa lưng với tư thế nửa nằm nửa ngồi.
Văn Vương ra hiệu cho Thái hậu và Thái tử Cơ Phát rời đi. Nhà vua muốn nói chuyện riêng với Thái Công. Thái hậu và Thái tử Cơ Phát bèn lẳng lặng bước ra ngoài.
Văn Vương nắm lấy một cánh tay của Thái Công, nói :
– Này Thái Công ơi, e rằng tôi sắp phải đi gặp phụ vương Quý Lịch rồi. Kể từ khi gặp Thái Công tại Bàn Khê cho tới nay, triều nhà Châu của tôi đã ngày một cường thịnh. Thái Công đã phụ tá cho tôi Đông chinh Tây phạt, trước sau đánh bại được các nước như Sùng Quốc, Lê Quốc, Hình Quốc… và hàng phục được Mật Tu Quốc. Nay ba phần trong thiên hạ thì hai phần đã thuộc về nhà Châu. Tất cả những sự thắng lợi đó đều do mưu kế tuyệt vời của Thái Công. Giờ đây, trời già bắt tôi phải rời đi, không thể tiếp tục cộng sự để hoàn thành sự nghiệp lớn là tiêu diệt triều nhà Thương với Thái Công nữa. Gánh nặng này tôi đành phải để lại cho Thái Công và Thái tử chung sức hoàn thành. Nhưng hiện nay có một điều khiến tôi lo lắng nhất, là sau khi tôi chết, con cháu của tôi sẽ nổi loạn vì vấn đề kế thừa ngôi vua. Do vậy, tôi muốn cùng thương lượng việc truyền ngôi của nhà Châu với Thái Công, vậy xin Thái Công nên dốc hết tâm sức để ủng hộ tôi. Nếu bọn Thúc Tiên nổi loạn, thì Thái Công có thể thẳng tay diệt trừ chúng. Còn như Thái tử tỏ ra là người bất tài, thì Thái Công nên thay thế nó ở ngôi vị Thiên tử.
Nói dứt lời., Văn Vương thở hào hển tỏ ra rất mệt nhọc.
Khương Thái Công nghe xong, nước mắt giàn giụa, quỳ xuống trước giường bệnh của Văn Vương vừa khóc vừa nói :
– Xin Đại vương hãy an tâm. Lão thần sẽ dốc hết tâm trí của mình phụ tá cho Thái tử Cơ Phát lên nối ngôi, tuyệt đối không dám dựa vào binh lực mà làm điều trái đạo. Chỉ cần lão thần còn khỏe mạnh, thì dù cho tim óc có phơi ra đất, cũng nhất quyết phụ tá cho triều đình nhà Châu, không bao giờ có ý phản trắc, làm hành động mà trời đất đều không thể dung tha ?
Nói đoạn, Khương Thái Công dập mạnh đầu xuống đất đến trán chảy máu. Văn Vương vừa thở vừa nói:
– Tôi biết Thái Công là người quân tử, nhân đức nên mới bàn riêng chuyện quan trọng này với Thái Công. Tôi tuyệt đối không bao giờ có lòng nghi ngờ Thái Công phản trắc cả. Tôi chỉ mong Thái Công hãy nói rõ, phải làm thế nào mới có thể giải quyết vấn đề truyền ngôi vua một cách thuận lợi đây.
Khương Thái Công đáp :
– Chuyện truyền ngôi là chuyện nhà của Đại vương, còn lão thần là người ngoài, vậy làm sao dám lạm bàn về việc này ?
Văn Vương rơi lệ, nói :
– Thái công là nhạc phụ của Thái tử, lại là Sư Thượng Phụ, tình cảm như tay chân, vậy làm sao bảo là người ngoài được ? Nếu Thái công không nói thì tôi chết không thể nhắm mắt đấy !
Khương Thái Công nói :
– Không phải lão thần không muốn góp ý với Đại vương. Chẳng qua việc truyền ngôi là chuyện quốc gia đại sự, chỉ có thể do Đại vương tự quyết định. Nếu người ngoài tham dự, e rằng sẽ để lại hậu quả khó lường. Nhưng, nếu Đại vương nhất định vấn kế nơi lão thần, thì lão thần xin mạo muội nói lên ý kiến của mình, mong Đại vương bảo mật đừng bao giờ nói cho ai biết.
Văn Vương lộ sắc vui mừng, nói :
– Đó là điều tất nhiên rồi.
Thái Công nói :
– Thái tử Cơ Phát là người trung hậu, nhân đức, vũ dũng kiên cường, thao lược hơn người nếu được lập làm Thái tử, thì đó là cái phúc của Đại vương, điểm lành của nhà Châu vậy. Đại vương có thể viết di chiếu nói rõ, lập Thái tử Cơ Phát lên làm “Trữ Quân” (vua chờ lên ngôi – ND). Đồng thời, tuyên bố bãi bỏ chế độ “anh chết thì em nối ngôi”. Phải chỉ rõ đấy là nguyên nhân gây rối loạn của các triều đại Ân Thương, đồng thời, cũng ra lệnh nói rõ chế độ thừa kế của nhà Châu từ nay về sau là chế độ “đích trưởng thừa kế”. Tức sau khi Cơ Phát qua đời, thì con trưởng nam của Cơ Phát sẽ lên nối ngôi vua. Cứ thế mà kéo dài mãi, thì có thể tránh được nhiều chuyện rắc rối trong vấn đề nối ngôi. Riêng nhóm Thúc Tiên, Thúc Độ, Thúc Xứ… thì có thể phong cho họ làm chư hầu ở một vùng đất xa, khiến họ phân tán, không cho họ tham gia việc triều chính. Như vậy thì họ sẽ khó gây ra những cuộc biến loạn. Riêng hai người em của Thái tử là Đán và Thích, đều là những người quân tử, hoàn toàn có thể tin dùng. Vậy hãy để cho họ cùng phụ tá Thái tử. Sắp xếp như thế thì tuyệt đối không xảy ra điều gì đáng tiếc cả.
Văn vương cả mừng, nói :
– Những lời nói trên đúng là những lời nói từ tâm can, những lời nói quý giá, vậy xin Thái Công nói lại cho Thái từ biết, ngày mai hãy thiết triều rồi mời tất cả các thành viên trong vương thất, cũng như các văn võ đại thần hội họp để tôi có lời tuyên cáo.
Dựa theo ý chỉ của Văn Vương, triều đình nhà Châu tổ chức một buổi họp triều cuối cùng của nhà vua, để giải quyết vấn đề người nối ngôi, công bố chế độ kế thừa ngôi vua sau này, cũng như việc phong đất cho các con.
Văn Vương ngồi tựa lưng trên một tấm chăn dầy, còn Khương Thái Công thì đứng bên cạnh, phía dưới có Thái tử Cơ Phát và đại phu Tán Nghi Sinh.
Tán Nghi Sinh chịu trách nhiệm ghi chép, còn những người tham gia họp triều khác như Thúc Tiên, Thúc Đán, Thúc Độ, Thúc Võ, Thúc Xứ, Thúc Chân Đạc, Thúc Khang, Thái Tôn Kiếm, Bá Cầm, Thứ Tử Thích, Nam Cung Thích, Quần Thiên, v.v… thì đứng theo thứ tự.
Văn Vương đưa mắt ngó quanh các con cháu một lượt, rồi từ từ nhìn về Thái Công, nói :
– Ta phó thác chuyện quốc gia đại sự cho Thượng Phụ Khương Thái Sư, vậy nếu có ai trong số các ngươi trái lệnh, thì sẽ do Thượng Phụ bàn bạc để xử phạt.
Các con đều lên tiếng tuân lệnh. Văn Vương lại nói tiếp :
– Sau khi ta chết, sẽ cho Thái tử Cơ Phát lên nối ngôi vua, còn các con cháu thì phải đồng tâm hợp lực giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành sự nghiệp lớn của triều đình. Về sau, chế độ kế thừa ngôi vua sẽ bãi bỏ chế độ anh chết em lên nối ngôi, mà áp dụng phép “đích trưởng kế thừa”. Chế độ “anh chết em nối ngôi” của các triều đại Ân Thương, chính là nguồn gốc tạo ra sự loạn lạc. Vậy, người Châu ta tuyệt đối không thể bắt chước theo họ. Từ nay về sau, nếu có ai dám chống lại chế độ “đích trưởng kế thừa”, thì được xem như phản nghịch, cả tông thất đều không thừa nhận.
Sau khi nghe qua những lời nói này, Thúc Tiên, Thúc Độ, Thúc Xứ, v.v… đều buồn thiu, cúi mặt nhìn xuống đất.
Văn Vương tiếp tục nói :
– Con cháu trong tông thất của triều nhà Châu, đều được phong đất để kiến tạo quốc gia, để làm phên giậu cho Vương thất. Thúc Tiên có thể phong ở đất Quản, Thúc Độ có thể phong ở đất Thái. Thúc Võ có thể phong ở đất Thành. Thúc Xứ có thể phong ở đất Hoắc, Chấn Đạc có thể phong ở đất Tào, Thúc Khang có thể phong ở đất Vệ.
Nói đến đây hơi thở của Văn Vương hết sức dồn dập. Nhà vua dừng lại một chốc rồi mới nói tiếp:
– Những lời nói trên được xem như là di chúc của. ta. do Đại Phu Tán Nghi Sinh ghi chép, và do Thái Công Vọng chấp hành những điều di chúc này.
Nếu ai cãi lệnh thì sẽ do Thái Công xử trí.
Văn Vương nói xong cảm thấy hai mắt tối sầm, hơi thở khó khăn, và cuối cùng đã ngất lịm. Các con thấy thế đều hốt hoảng. Khương Thái công bèn xuống lệnh cho mọi người lui ra, rồi mời ngự y vào để đổ sâm cho nhà vua. Không mấy chốc sau, Văn Vương tỉnh trở lại, nói với Thái Công :
– Hãy mau truyền cho Cơ Phát vào yết kiến.
Thái tử Cơ Phát vội vàng vào gặp phụ vương. Ông thấy phụ vương sắc mặt hồng hào, có vẻ rất phấn chấn, hoàn toàn khác hẳn khi nãy, biết phụ vương đang ở trong tình trạng hồi dương, vội vàng quỳ xuống trước giường bệnh, chờ nghe nhà vua chỉ dạy. Văn Vương đưa tay sờ nhẹ lên lưng của Thái tử Cơ Phát, nói :
– Ta sắp chết rồi, vậy xã tắc của nhà Châu ta ủy thác lại cho ngươi và Thái Công. Sau khi ta chết, Thái Công là á Phụ của ngươi. Mọi việc ở bên ngoài ngươi phải bàn bạc cùng Thượng phụ, còn mọi việc ở bên trong thì ngươi phải bàn bạc cùng hai em là Đán và Thích.
Thái tứ Cơ Phát vừa khóc vừa đáp.
– Con xin ghi nhớ ! Con xin ghi nhớ !
Khương Thái Công đang đứng bên cạnh cảm động trào lệ ướt cả đôi má, và nghẹn ngào không thể khóc được. Lúc bấy giờ, Văn Vương cảm thấy lồng ngực của mình đau nhói, đôi mắt tối sầm. Nhà vua thở hổn hển một lúc, rồi mỉm cười nhìn Thái Công và Cơ Phát, chừng như muốn nói “Bây giờ thì ta an tâm rồi !”. Sau đó nhà vua từ từ khép kín đôi mắt lại.
7. Duyệt Binh Tại Mạnh Tân
Sau khi Châu Văn Vương qua đời, Châu Võ Vương (tức Thái tử Cơ Phát) liền khẩn trương chuẩn bị mọi việc cho cuộc thảo phạt tiêu diệt triều đại nhà Thương sắp tới. Một hôm, Châu Võ Vương triệu Khương Thái Công đến để cùng bàn bạc về chuyện này.
Khương Thái Công nói với Châu Võ Vương :
– Việc tiêu diệt triều đại nhà Thương là việc mà lão thần lúc nào cũng luôn chuẩn bị. Tuy nhiên, tình hình trước mắt chưa phải là thời cơ chín mùi. Lão thần có phái mật thám đến dò xét tại Triều Ca, qua tin tức của họ cho biết, thì mối mâu thuẫn nội bộ trong giới quý tộc của triều đình nhà Thương đang rất gay gắt, nhưng chưa đến mức độ bùng nổ toàn diện. Đại Vương nên biết, triều đại nhà Thương mặc dù hết sức hủ bại, nhưng nói cho cùng, họ là một đại quốc, trong tay có đến mấy chục vạn quân. Nếu chúng ta chỉ dựa vào vũ lực để thảo phạt họ, thì tất nhiên phải trả một cái giá rất đắt. Do vậy, chúng ta nên chờ đợi đến khi nội bộ của triều đình nhà Thương hỗn loạn rồi thừa cơ hội đó tiến công, thì có thể dùng một sức mạnh yếu hơn để thắng sức mạnh mạnh hơn của họ. Qua đó có thể giành được một sự thành công to lớn, mà chỉ phải trả một cái giá rất thấp.
Võ Vương sau khi nghe qua lời phân tích tình hình của Khương Thái Công, bèn nói :
– Lời nói của Thượng Phụ rất đúng, nhưng vì hiện nay tam quân tướng sĩ đều nôn nóng, muốn tiêu diệt triều đại nhà Thương, nhất là nhiều nước chư hầu, cũng yêu cầu chúng ta nên đứng lên dẫn dắt họ để tiêu diệt Thương Trụ. Như vậy, nếu chúng ta không có hành động gì thì e rằng nhuệ khí cua tướng sĩ ta dần dần sẽ nguội lạnh, và quyết tâm chống Trụ của các nước chư hầu cũng sẽ nhợt nhạt dần. Cho nên tôi muốn nhân dịp tiến hành cuộc săn bắn mùa Thu sắp tới sẽ có một hành động gì đó để hâm nóng tinh thần của tướng sĩ và các nước chư hầu. Không chờ Võ Vương nói hết lời, Thái Công vội vàng nói :
– Lão thần cũng đang có một ý nghĩ, nhưng chưa đem ra để thương lượng với chúa công. Vậy xin chúa công đừng vội nói rõ ý nghĩ của mình mà chúng tôi mỗi người sẽ viết ý nghĩ đó vào lòng bàn tay, rồi cùng xòe ra xem có tương đồng hay không ?
Võ Vương đáp :
– Được !
Thế là Võ Vương và Khương Thái Công mỗi người dùng một cây bút son viết năm chữ vào lòng bàn tay, rồi mới xòe ra để cùng nhau xem. Thật bất ngờ, vì ý nghĩ của đôi bên đều giống nhau. Thì ra trong lòng bàn tay của Võ Vương và Thái Công, đều viết năm chữ. “Duyệt binh tại Mạnh Tân”. Hai người nhìn nhau cười xòa. Khương Thái Công nói :
– Ý nghĩ của chúa công đúng là rất anh minh. Vì tiến hành cuộc duyệt binh tại Mạnh Tân một là có thể kiểm nghiệm thử thái độ của các nước chư hầu đối với chúng ta, để từ đó chúng ta càng vững bụng. Thứ hai là xem phản ứng của Trụ Vương đối với hành động của chúng ta ra sao, từ đó tìm hiểu thêm hư thực của triều đình nhà Thương. Thứ ba là có thể lợi dựng cuộc duyệt binh này để chúng ta tiến hành một cuộc diễn tập cho quân đội của mình. Như vậy, chỉ một hành động mà được ba điều tốt.
Thế là Võ Vương quyết định vào cuối tháng mười, sẽ tổ chức một cuộc duyệt binh tại Mạnh Tân, và bố cáo quyết định này cho các chư hầu ở bốn phương biết.
Đầu tháng mười năm đó, Võ Vương và Thái Công đích thân dẫn ba vạn giáp sĩ, ba nghìn Hổ Bôn, một nghìn cỗ chiến xa rời Cảo Kinh, vượt ra Lâm Đồng, lại vượt qua Mãnh Trì, ồ ạt tiến về phía Đông. Đội ngũ này kéo đài đến hai mươi dặm.
Sau nhiều ngày hành quân, ba đạo quân đã tiến tới Lạc Ấp, còn cách Mạnh Tân không bao xa. Khương Thái Công đích thân chỉ huy ba vạn đại quân và nhiều xe chở theo lương thảo cùng vượt sông. Một đạo quân khác do đại tướng Nam Cung Thích chỉ huy, được xem là tả quân. Một đạo quân thứ ba do tướng quân Hoàng Hiểu chỉ huy, được xem là hữu quân. Riêng Khương Thái Công và Võ Vương thì chỉ huy trung quân, do đại tướng Võ Cát hộ giá. Trên mặt sông rộng mênh mông, ba đoàn thuyền dài như ba con rồng to, từ hướng Nam tiến lên hướng Bắc trông thật oai hùng. Trong lần họp mặt để minh thệ với các nước chư hầu này, Võ Vương đã phát ra một trăm thiệp mời, nhưng số người nghe tin tự đến lên đến tám trăm. Họ dẫn theo ngoài một vạn binh sĩ. Vì các nước chư hầu đối với hành động ngang ngược, bạo tàn của Trụ Vương triều nhà Thương, từ lâu đã tỏ ra không nhẫn nhịn được. Nay Tây Châu quật khởi, thật chẳng khác nào một bó đuốc sáng rực đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng trong lòng các quốc vương ở các nước chư hầu. Đồng thời, Tây Châu cũng chẳng khác chi một cục nam châm lớn, thu hút tất cả các nước chư hầu về với mình.
Do vậy, sau khi nhận được thiệp mời của Võ Vương, không có nước chư hầu nào lại không vui mừng phấn khởi. Riêng những chư hầu không nhận được thiệp mời cũng tự động kéo tới bằng lòng tham gia cuộc liên minh này. Tuy nhiên, ở vùng Trung Nguyên có rất nhiều chư hầu, mặc dù họ đều thừa nhận Kỳ Châu là một nước chư hầu lớn nhưng vẫn xem Kỳ Châu là một chư hầu lạc hậu ở phía Tây, nên vẫn có ý dè dặt. Họ đến đây ngoài ý muốn được cùng liên minh, còn có một ý muốn khác là nhân cơ hội này xem Châu Võ Vương là người ra sao.
Chiếc thuyền to của Võ Vương và Thái Công ngồi đã sắp cập bến. Thái Công phóng mắt nhìn ra, thấy thủ lĩnh và binh sĩ của các nước chư hầu đã đứng thành đội ngũ trên bờ phía Bắc, chờ nghênh đón Võ Vương. Thái Công biết cuộc họp mặt liên minh ngày hôm nay đối với Tây Châu rất quan trọng. Ông biết một số chư hầu ở vùng Trung Nguyên ỷ mình có một nền kinh tế phát triển, nên ít nhiều xem nhẹ Tây Kỳ. Do vậy, ông bèn lên tiếng đề nghị :
– Khi thuyền cập bến xong, mời Võ Vương cưỡi ngựa để ngang nhiên tiếp nhận sự nghênh đón của các chư hầu. Vì một vị minh chủ cần phải có một phong độ hiên ngang, khí khái, đừng để người ta xem thường. Vậy chốc nữa đây lão thân sẽ đi trước dẫn cương ngựa cho Đại dương, và mời Châu Công đi sau cầm roi ngựa để cho chư hầu các nước thấy được, văn võ đại thần của nước ta đều hết sức cung kính Đại vương. Qua đó sẽ làm tăng thêm uy danh của Đại vương trong các chư hầu.
Thử hỏi Võ Vương nào lại bằng lòng để cho Khương Thái Công cầm cương dẫn ngựa cho mình. Nhưng Châu Công cũng như văn võ đại thần đều bảo lời nói của Thái Công là hữu lý. Đứng trước một duyệt binh long trọng hôm nay, không thể có thái độ tùy tiện, mà phải làm cho thực trang nghiêm, đường hoàng. Cho nên Võ Vương đành phải đồng ý.
Võ Vương cưỡi ngựa, đi qua đội ngũ của các chư hầu đang đứng nghênh đón. Nhà vua không ngớt đưa tay lên để chào đại thần, binh lính các nước chư hầu, thái độ rất nhiệt tình, nhã nhặn. Các nước chư hầu thấy Võ Vương có diện mạo đường đường, oai phong lẫm liệt, ra vẻ là một bậc đế vương, nên vô cùng ngưỡng mộ. Họ lại nhìn thấy Khương Thái Công là người nổi danh như cồn, lại đi bộ dẫn ngựa cho Võ Vương còn Châu Công thì đi sau cầm roi ngựa, nên vô cùng kinh ngạc. Họ nghĩ bụng: ngay đến một vị Thái sư mà cũng đi bộ cầm cương dẫn ngựa cho Võ Vương, như vậy đủ thấy tuy Võ Vương tuổi trẻ, nhưng uy tín rất cao, tất nhiên phải là người có có đầy đủ thao lược, có uy danh của một bậc thiên tử nên mới được như thế. Do vậy, Võ Vương đi tới đâu, các chư hầu đều nhiệt liệt hoan nghênh tới đó.
Sau khi Võ Vương tiếp nhận sự chào đón của các nước chư hầu, bèn cùng tám trăm lãnh tụ của các nước nối gót nhau đi vào Mạnh Tân. Lúc bấy giờ trời đã sắp sửa hoàng hôn.
Ngay đêm đó, Võ Vương thết tiệc tại Mạnh Tân để khoản đãi tám trăm chư hầu có mặt. Binh lính của Võ vương cũng như trên mười vạn binh sĩ của các nước chư hầu thì hạ trại đóng ở ngoài thành. Qua sự thương lượng và nhất trí của mọi người, ngày hôm sau sẽ cử hành một nghi lễ minh thệ long trọng tại hiệu trường, tọa lạc về phía Tây của thành Mạnh Tân.
Trời vừa hửng sáng, binh mã của các chư hầu đều kéo tới hiệu trường nằm tại phái Tây thành Mạnh Tân. Bên trong hiệu trường cũng như bên ngoài, mười vạn binh mã của các nước chư hầu đứng thành hàng ngũ dày đặc, trông thực trang nghiêm, hùng tráng. Tại trung tâm hiệu trường được xây một đài cao, bên trên có bàn thờ trời đất. Hai bên đài cao là nơi đặt chỗ ngồi cho tám trăm thủ lĩnh của các nước chư hầu. Đến giờ Ngọ, hơn tám trăm chư hầu nối đuôi nhau từ cửa phía Tây đi vào hiệu trường, rồi theo trật tự ngồi xuống vị trí của mình. Lúc bấy giờ, Võ Vương được mười tám giáp sĩ đi theo hộ vệ, từ ngoài tiến vào hiệu trường, rồi bước lên đài cao cử hành nghi lễ cáo tế trời đất và các thánh thần. Tiếp đó, Khương Thái công mình mặc khôi giáp, dẫn theo một con ngựa trắng. Châu Công cũng mặc khôi giáp, dẫn theo một con bò đen. Cả hai từ phía sau đài cao bước ra trước đài, rồi đứng yên lại. Không khí tại hiệu trường hết sức trang nghiêm.
Võ Vương nhìn quanh hiệu trường một lượt, rồi đưa cao cánh tay phải lên, to tiếng nói :
– Thưa các vị thủ lĩnh các bang quốc bằng hữu ! Thưa toàn thể các tướng sĩ ! Tiểu tử Cơ Phát tuân theo di mệnh tiên vương, dẫn đại quân tiến về phía Đông để duyệt binh tại Mạnh Tân. Và cũng để bàn bạc kế hoạch tiêu diệt Thương Trụ với tất cả các vị. Hôm nay có mặt trên tám trăm chư hầu, ai ai cũng xem Thương Trụ là kẻ thù chung. Qua đó cũng đủ thấy, chúng ta đã hành động đúng theo ý trời và lòng người.
Câu nói vừa dứt thì tại hiệu trường nổi lên tiếng hoan hô như sấm động. Một lúc lâu sau, tiếng hoan hô mới dần dần lắng xuống.
Võ Vương lại nói tiếp :
– Vua Trụ triều nhà Thương, là một tên hôn quân hoang dâm vô độ, bạo ngược tàn nhẫn, lúc nào cũng xua quân đi chinh phạt khắp mọi nơi, làm cho bá tánh lâm vào cảnh nước sôi lửa bỏng. Vậy, nếu các vị thủ lãnh của các bang quốc bằng hữu, cho rằng vua Trụ triều nhà Thương là đáng thảo phạt, thì xin hãy cùng minh thệ với tôi !
Câu nói của Võ Vương vừa dứt, thì phía dưới lại nổi lên tiếng hoan hô như sấm. Lúc đó, Khương Thái Công, Châu Công cùng tuốt kiếm đâm chết con ngựa trắng và con bò đen, rồi sai người khiêng đặt lên bàn. Võ Vương từ trên đài cao bước xuống, tay trái nắm lỗ tai con bò, tay phải cầm dao rạch một đường dài trên lỗ tai của nó. Sau đó, Võ Vương cùng thủ lĩnh của hơn tám trăm chư hầu uống rượu pha máu, để cùng minh thệ với trời đất : “Cùng nhau thảo phạt kẻ có tội để cứu dân lành, đồng tâm hiệp lực tiêu diệt Thương Trụ, có họa cùng chịu, có phước cùng hưởng !”
Thề xong, tám trăm chư hầu cũng như văn võ bá quan của Kỳ Châu đều hết sức phấn khởi, yêu cầu nên nhân cơ hội này xua quân đánh vào Triều Ca, tiêu diệt Thương Trụ. Nhưng Võ Vương và Khương Thái công đã kịp thời giải thích với mọi người. Khương Thái công nói :
– Thương Trụ là một tên hôn quân vô đạo, con người cũng như thần thánh đều căm hận, đáng lý ra hắn phải bị thiên tru địa diệt từ lâu rồi. Nhưng, vì triều đình nhà Thương là một đại quốc, đã có cơ sở thống trị hơn sáu trăm năm qua. Trong tay của nó có mấy mươi vạn quân đội. Cho dù hiện nay triều đình nhà Thương đang hết sức hủ bại, nội bộ mâu thuẫn lớp lớp, nhưng vẫn chưa tới thời kỳ sụp đổ. Cho nên, đối với một thế lực to lớn như vậy, chúng ta không thể manh động liều lĩnh. Nhất là qua cuộc duyệt binh tại Mạnh Tân hiện nay, triều đình nhà Thương chắc chắn đã có sự cảnh giác đề phòng. Vậy, chúng ta cần phải chờ đợi khi có thời cơ thuận tiện, chỉ cần khởi binh là giành được thắng lợi vào tay. Chư hầu các nước nghe lời nói của Thái Công có lý, nên cùng hẹn hò nhau sẽ liên hệ chặt chẽ, báo cho nhau biết tin tức diễn biến hằng ngày. Chờ khi cơ hội đến, mọi người bằng lòng nghe theo lệnh chỉ huy của Võ Vương, đồng tâm hiệp lực thảo phạt Trụ Vương triều nhà Thương.
8. Quyết Chiến Tại Mục Dã
Hai năm sau khi duyệt binh tại Mạnh Tân, Châu Võ Vương cho rằng thời cơ các mặt đã chín mùi, có thể phát binh. Đông chinh để tiêu diệt triều Thương Trụ. Nhà vua bèn cho mời Thái Sư và những văn võ đại thần trong triều đình như Châu Công, Thiệu Công, Nam Cung Thích, đến để cùng thương nghị.
Khương Thái Công nói trước tiên :
– Trước kia lão thần từng nói với Văn Vương, một vị quân vương trước tiên phải thể hiện đạo đức phải chiêu hiền đãi sĩ, phải thi ân đối với nhân dân, làm cho quốc gia mỗi ngày thêm cường thịnh. Đồng thời, phải quan sát sự cát hung của thiên đạo, phải chờ cho có thiên tai xảy ra, và lại có những nhân họa xuất hiện, thì mới có thể sách hoạch việc chinh phạt được. Giờ đây Trụ Vương đã cho xây “Nhục Lâm Tửu Trì” tạo ra những dụng cụ cực hình như “Bào lạc, Sai bồn” (bồn đựng bọ cạp để cắn tội nhân), mổ tim vị
trung thần Tỷ Cang, bắt ép người huynh trưởng là Vi Tử phải ra đi, làm cho cả triều đình lẫn ngoài dân gian không đâu được yên, lòng dân oán hận sôi sục. Hiện nay Trụ Vương đang lâm vào tình thế người thân xa lánh, bá tánh sẵn sàng đứng lên làm phản. Chẳng riêng người trong nước gồng gánh nhau bỏ trốn đi nơi khác, mà ngay đến Vương công quý tộc cũng trở mặt xa lìa ông ta. Gần đây nhất, Đông Di và một số bang quốc ở phía Nam đã đua nhau đứng lên chống lại Thương Trụ, khiến ông ta phải điều động đại quân đi đàn áp. Thậm chí, ông ta đưa cả ngự lâm quân gồm “ba trăm sáu chục người” của ông ta đi về phía Đông Nam để đánh giặc. Do vậy, tại Triều Ca đã hoàn toàn trống rỗng. Triều đình nhà Thương hiện nay nguy khốn như vậy mà Trụ Vương vẫn một mực lo hoang dâm sa đọa. Đấy chính là dấu hiệu mất nước đến nơi. Tôi từng quan sát đồng ruộng của ông ta, thấy cỏ hoang mọc phủ cả mạ mới cấy. Tôi cũng từng quan sát quần thần của ông ta, thấy bọn dua nịnh áp đảo những người ngay thẳng công bình. Tôi cũng từng quan sát quan lại của ông ta, thấy chúng đều là một phường bạo ngược tàn nhẫn, tùy tiện giết người, không coi pháp luật ra gì. Thế mà bọn chúng vẫn u mê không thức tỉnh, vậy đúng là thời điểm diệt vong của chúng đã đến rồi. Cho nên tôi hết sức tán thành duyệt binh để thảo phạt Thương Trụ. Châu Công, Thiệu Công, Nam Cung Thích và một số đại thần khác đều tán thành ý kiến của Khương Thái Công. Võ Vương thấy mọi người đều nhất trí nên hết sức vui mừng, bèn ra lệnh cho Thái sư bói toán để biết cát hung.
Thái sư liền bày bàn hương án, khấn vái trời đất, rồi lắc ống xăm để bói toán. Mọi người đều tập trung tia mắt theo dõi kết quả cuộc bói toán đang tiến hành.
Quẻ bói của Thái Sư là quẻ “Sư quái lục ngũ chi hào”. Thái Sư mở lời bàn ra xem, thấy lời bàn chỉ viết tám chữ : “Trưởng tử soái sư, đệ tử dư thi” có ý nghĩa là, nếu Võ Vương chỉ huy binh mã xuất chinh, thì sẽ dùng xe chở xác chết của tướng sĩ trở về. Thái Sư không khỏi kinh hoàng thất sắc.
Võ Vương xem qua lời bàn, sắc mặt cũng sa sầm nguy. Châu Công, Thiệu Công, Nam Cung Thích cũng nhìn nhau ngơ ngác, không biết nói gì hơn. Một bầu không khí lo âu khiến cho mọi người cảm thấy hết sức ngột ngạt, khác hẳn sự vui vẻ phấn khởi lúc ban đầu.
Bầu không khí đó kéo dài khá lâu. Châu Công thấy ý trời như vậy, biết không thể cãi lại được, bèn nói :
– Chi bằng hãy tạm hoãn việc xuất binh, chờ sau này rồi sẽ tính.
Võ Vương vốn đang nôn nóng cử binh phạt Trụ, nghe Châu Công nói thế, giận dữ hỏi :
– Chúng ta đa chuẩn bị nhiều năm qua, chỉ chờ có ngày hôm nay. Hiện giờ Trụ Vương vẫn tàn bạo ngang ngược, khiến cho trời hờn người oán, ai ai cũng căm thù, vậy chả lẽ trời xanh còn bảo vệ cho ông ta hay sao ?
Lời nói của Võ Vương vừa dứt, thì trên trời bỗng sấm nổ ầm ầm, điện chớp sáng ngời, gió to cuốn tới. Một trận mưa to trút xuống như cầm tỉnh đổ. Trong trận mưa to này, còn mang theo cả những hạt đá to bằng quả trứng gà, đánh vỡ cả ngói, làm gãy cả nhành cây. Mới đầu Đông mà đã xảy ra hiện tượng này thật là quái lạ.
Đứng trước hiện tượng thiên nhiên bất ngờ trên, bá quan văn võ đều vô cùng lo sợ. Ngay đến Võ Vương cũng sợ đến mặt mày tái mét. Chả lẽ ông trời thật sự đang nổi giận hay sao ? Chả lẽ Trụ Vương là một nhà vua tàn ác nhưng không thể chinh phạt được hay sao ?
Lúc bấy giờ chỉ có Khương Thái Công vẫn bình tĩnh như thường, ung dung nói :
– Gió, tuyết, mưa, mưa đá, là chuyện thường tình của trời đất, không có chi mà phải sợ hãi. Việc nước ta cử binh chinh phạt ân Trụ, chính là thế thiên hành đạo, làm theo ý trời, chinh phạt kẻ hung tàn để cứu dân đen là một nghĩa cử. Như vậy, chắc chắn trời cao sẽ phù hộ cho chúng ta được thành công. Vậy, tôi có một kiến nghị, chọn một ngày hoàng đạo cát nhật khác, thỉnh Võ Vương đứng ra tế trời, rồi chính nhà vua bói một quẻ xem việc hung cát ra sao. Đến chừng đó sẽ tùy nghi định đoạt. Không rõ các vị thấy thế nào ?
Võ Vương và các đại thần nghe qua lời của Thái sư, trong lòng tạm thấy ổn định, bèn bàn bạc việc chọn ngày cát nhật, để Võ Vương tế trời rồi đích thân xem bói.
Hôm ngày tế trời, Võ Vương bước lên đàn tế, thấp nhang lâm râm khấn vái :
– Cơ Phát tôi cử binh phạt Trụ, tuân hành theo ý của trời, chinh phạt kẻ có tội để cứu dân, mong trời xanh phù hộ cho tôi được thành công ?
Khấn xong, đích thân nhà vua tiến hành việc bói toán. Khi mở ra xem, thấy đó là quẻ “Thái quái sơ cửu hào”. Lời bàn nói : “Bạt mao như, dĩ kỳ hói, chinh cát”, nghĩa là mọi việc dễ dàng như nhổ cỏ, xuất chinh sự gặp đại cát. Võ Vương hết sức vui mừng, bèn đưa lời bàn cho quần thần xem. Xem xong, tất cả các đại thần đều vui mừng nhảy nhót.
Võ Vương cảm thấy như trút được gánh nặng, bèn xuống lệnh:
– Hãy nhanh chóng chuẩn bị xuất sư, đồng thời, thông tri cho chư hầu bốn phương, vào ngày Giáp Tý hội sư tại Mạnh Tân, để tiến hành thảo phạt Thương Trụ.
Mùa đông, tháng mười hai, Võ Vương đích thân chỉ huy ba trăm cỗ binh xa, ba nghìn Hổ Bôn, bốn vạn năm nghìn giáp sĩ. Nhà vua lại sai Khương Thái Công làm Đại tướng tiên phong, rồi ồ ạt kéo binh về hướng Đông. Sau khi đại binh tới Mạnh Tân, thì chừng mười vạn quân sĩ của tám chư hầu gồm các bang quốc như Thục, Dung, Khương, Lư, Vi, Bành, Bộc v.v… đã tập hợp chờ đợi sẵn ở đó. Võ Vương đích thân tiến hành nghi lễ “Thái thệ” để cổ xúy tinh thần binh sĩ của mình, cũng như binh sĩ của tám trăm chư hầu, kêu gọi họ đồng tâm đoàn kết để chiến đấu.
Việc dụng binh quý ở chỗ nhanh chóng. Hơn mười vạn đại quân đi bất kể ngày đêm. Sáng sớm ngày Giáp Tý, họ bất ngờ xuất hiện tại Mục Dã, một địa điểm cách ngoại ô kinh đô của nhà Thương hơn một trăm bốn chục dặm. Võ Vương một lần nữa cử hành đại hội thệ sư tại Mục Dã, và tuyên đọc bản “Mục thệ” hài rõ từng tội danh của vua Trụ, cổ xúy toàn quân đem hết tinh thần ra quyết chiến. Lúc bấy giờ mười vạn đại quân đều hết sức phấn khởi, người nào người nấy tinh thần rất cao, sẵn sàng chiến đấu để lập công diệt Trụ.
Đại tướng tiên phong là Khương Thái Công dẫn bốn vạn quân giáp sĩ, đánh ập vào trận địa của quân đội nhà Thương một cách bất ngờ, với khí thế mạnh như một bầy cọp từ trên núi tràn xuống, như những con giao long từ dưới nước vươn mình vọt lên. Trụ Vương vì trở tay không kịp, nên chỉ còn cách hối hả điều binh khiển tướng. Nhưng đáng tiếc là bộ đội tinh nhuệ của ông ta đã được phái đi chinh phạt Đông Di rồi, trong thành hiện nay đang trống rỗng. Trụ Vương bắt buộc phải sử dụng những tên nô lệ ở trong thành đi tác chiến. Triều đình Ân Thương đúng là một đại quốc, với sự chấp vá bằng những tên nô lệ trong thành, họ cũng tổ chức được một đạo quân đến mười bảy vạn người, nghinh chiến với đại quân của Võ Vương.
Nhưng, Khương Thái Công đã cho binh sĩ của mình cải trang thành quân đội triều đình Ân Thương, trà trộn vào đối phương từ lâu, tiến hành phao tin đồn nhảm, làm tan rã tinh thần binh sĩ của Thương Trụ. Khi họ trông thấy quân đội nhà Châu kéo tới nơi, nhất là họ biết rõ những người nô lệ bị bắt buộc, không có ý chí chiến đấu, nên đua nhau la to:
– Võ Vương đã đánh vào Triều Ca rồi ! Trụ Vương đã tự sát rồi !
Bọn binh sĩ nô lệ của Ân Trụ nghe thế, liền khởi nghĩa ngay mặt trận, trở giáo chạy theo quân đội nhà Châu. Họ hướng dẫn quân đội của Võ Vương đánh thẳng vào Triều Ca. Thế là cánh quân gồm có quân đội của Võ Vương, kết hợp với quân nô lệ khởi nghĩa, ào ạt tiến đánh như chẻ tre, đến đâu thắng đó. Binh sĩ của Trụ Vương bị giết chết đầy đồng, máu chảy thành sông.
Riêng Trụ Vương chẳng khác gì một con chó chết chủ, ngay trong đêm bỏ trốn khỏi Triều Ca. Ông ta thấy đại cục đã tiêu tan, bèn mặc áo mão nhà vua rồi lên Lộc Đài, nổi lửa tự thiêu. Lộc Đài là một kiến trúc do Thương Trụ bóc lột tiền tài của nhân dân xây dựng suốt bảy năm dài mới xong. Đài này cao hằng trăm trượng, khi ngọn lửa bốc cháy thì chẳng khác chi một bó đuốc khổng lồ, soi sáng khắp cả vùng kinh thành Triều Ca. Bá tánh ở trong thành cũng như ở ngoài thành, ngay trong đêm kéo ra ngoại ô, lập bàn hương án, quỳ lạy đón tiếp Võ Vương tiến vào thành.
Võ Vương đứng lên tuyên bố để trấn an bá tánh, rồi ra lệnh cho hầu hết quân đội hạ trại đóng yên tại ngoài thành, còn mình và Khương Thái Công thì dẫn ba ngàn Hổ Bôn tiến vào Triều Ca. Võ Vương và Khương Thái Công cho quân đội dập tắt những đám cháy, rồi cùng bước lên Lộc Đài. Khương Thái Công nhìn thấy Trụ Vương đã bị lửa cháy sạm đen, hai mắt mở trừng trừng như hãy còn nuối tiếc, liền đưa tay chỉ thẳng vào xác Trụ Vương, mắng lớn :
– Bớ tên hôn quân vô đạo ! Nhà ngươi đã hạ chết không biết bao nhiêu lê dân bá tánh, ta phải chặt lấy đầu ngươi để báo thù cho bá tánh trong thiên hạ, mà cũng để báo thù cho cha mẹ và cửu tộc ở Đông Di trước kia!
Nói dứt lời, Khương Thái Công tuốt kiếm chém lấy thủ cấp của Trụ Vương. Võ Vương ra lệnh cho binh sĩ mang thủ cấp Trụ Vương treo lên sào cao, rồi đích thân mình lấy cung tên ra bắn vào chiếc thủ cấp đó ba phát để đánh dấu sự thống trị của triều nhà Thương đã chấm dứt từ đây.
9. Được Phong ở Tề Quốc
Năm hôm sau khi đại thắng tại Mục Dã, Châu Võ Vương liền tiến hành nghi lễ khai quốc đại điển, định đô tại Cảo Kinh, chánh thức xây dựng triều đại nhà Châu, lịch sử gọi là Tây Châu.
Châu Võ Vương mời Khương Thái Công, Châu Công, Nam Cung Thích và một số đại thần khác đến thương nghi, xem phải làm cách nào xử trí số dân do triều Ân Thương bị diệt vong để lại. Phải khống chế vùng cương thổ rộng lớn vừa mới chiếm được bằng cách nào. Phải củng cố chánh quyền vừa mới xây dựng ra sao. Kết quả của việc nghiên cứu là : Phong đất cho các chư hầu, bằng cách cử những người có tài năng trong các công thần, trong hoàng tộc của nhà Châu, cũng như trong những quý thích có quan hệ hôn nhân với triều đình, đến các địa phương trong cả nước để hưng bang kiến quốc, toàn quyền cai trị vùng đất được phong. Các chư hầu này có nhiệm vụ triều cống tài vật lên cho Châu Vương theo định kỳ, cũng như phải cung cấp quân đội để bảo vệ Vương thất.
Thế là, người con của Châu Công là Cầm được phong ở đất Lỗ, Khang Thúc được phong ở đất Vệ, Thúc Ngu được phong ở đất Tấn, Thiệu Công Thích được phong ở đất Yên… hình thành “giòng họ phong kiến, làm phên giậu cho nhà Châu”.
Nhưng khi phong cho con trai của Trụ Vương là Võ Canh, thì ý kiến của Khương Thái Công, Võ Vương và Châu Công có chỗ khác nhau. Người em của Võ Vương là Châu Công chủ trương phong cho Võ Canh ở tại kinh đô cũ của nhà Thương, để thực hành chính sách “lấy Thương trị Thương”.
Khương Thái Công chủ trương nên giết hết những hậu nhân của triều đại nhà Thương theo cách trảm thảo trừ căn, để tránh hậu hoạn. Nhưng Võ Vương lại ủng hộ ý kiến của Châu Công, phong Võ Canh ở tại kinh đô của nhà Thương cũ tức ở tại Triều Ca để quản lý dân của nhà Thương còn để lại. Nhằm ngăn ngừa Võ Canh làm loạn, Võ Vương phái ba người em trai của nhà mình là Quản Thúc, Thái Thúc, Hoắc Thúc theo giám sát Võ Canh, được lịch sử gọi là “Tam giám”, Khương Thái công thấy Võ Vương đã quyết định như vậy, cũng không nói gì thêm, nhưng trong lòng luôn lo ngại.
Thế còn Khương Thái Công thì nên phong đi đâu ? Để tỏ lòng tôn trọng Khương Thái Công, Võ Vương đặc biệt trưng cầu ý kiến của Khương Thái Công. Khương Thái Công đáp:
– Quê cũ của lão thần là Doanh Khưu (nay là Lâm Tri thuộc tinh Sơn Đông). Trước đây Trụ Vương phát binh Đông chỉnh, gần như đã san bằng cả Doanh Khưu, và giết chết cha mẹ của lão thần ở đấy. Lão thần từ trước có lời thề, sau khi lật được Thương Trụ thì sẽ trở về quê cũ, lập lại bang quốc của mình. Do vậy lão thần khẩn cầu Chúa công nên phong cho thần về quê cũ tại Sơn Đông.
Võ Vương cả mừng, nói :
– Lời nói của Thượng Phụ rất hợp với ý cô gia. Một là Thượng Phụ đến
Doanh Khưu có thể thực hiện được ước nguyện năm xưa, khôi phục lại bang quốc cũ. Thứ hai là các bộ tộc Cửu Di ở phía Đông không ngớt quấy nhiễu lãnh thổ Trung Hoa, Thượng Phụ nếu về dựng nước tại Sơn Đông, thì có thể khuất phục được các bộ tộc người Di ở phía Đông, khiến từ nay vùng đất phía Đông sẽ được thái bình, không còn giặc giã nữa.
Thế rồi nhà vua đã lấy vùng đất nằm giữa Bột Hải và Thái Sơn của Bạt Cô Thị xưa kia phong cho Thái Công đặt quốc hiệu là Tề, đóng đô tại Doanh Khưu.
Khương Thái Công tạ ơn trở về phủ riêng, chuẩn bị hành trang để lên đường đến vùng đất được phong.
Khương Thái Công là khai quốc công thần của triều Tây Châu, công lao hiển hách, lại là nhạc phụ của Võ Vương, cho nên Võ Vương đã đặc biệt thết tiệc để chiêu đãi Thái Công, tiễn đưa Thái Công trở về đất phong. Các thành viên trong tông thất nhà Châu cũng như các văn võ đại thần trong triều đình, ai ai cũng có mặt tại buổi tiệc tiễn đưa, không khí hết sức náo nhiệt và long trọng.
Khi mọi người uống rượu đến ngà ngà say, Châu Võ Vương bỗng cầm một cánh tay của Khương Thái Công nói :
– Thượng Phụ đã giúp cho nhà Châu của cô gia ngày càng mạnh lên luôn, Đông chinh Tây phạt, công lao số một trong triều đình. Ngày mai này Thượng phụ đến vùng đất phong tại Sơn Đông, không biết đến tháng năm nào mới gặp lại, khiến cô gia cảm thấy thật là lưu luyến, không muốn để cho ngài rời đi.
Vừa nói, nước mắt của Võ Vương vừa trào ra ướt cả đôi má.
Lúc bấy giờ Châu Võ Vương đã sáu mươi tuổi, còn Khương Thái Công đã là một cụ già đứng trăm tuổi rồi. Chỉ có điều tuy râu tóc cụ đã bạc phơ, nhưng da dẻ vẫn còn hồng hào như người trai trẻ. Đúng là một cụ già trường thọ. Nhìn thấy Võ Vương xúc động, Khương Thái Công cũng không khỏi mủi lòng, nước mắt trào ra khỏi khóe, nói :
– Chúa công bất tất phải quá lo lắng. Lão thần tuy tuổi đã cao, nhưng trước đây có học phép dưỡng sinh ích thọ, vẫn có thể sống thêm mấy mươi năm nữa kia mà. Lần đi đến Sơn Đông này, lão thần nhất định sẽ dốc hết sức mình để chấn chỉnh nước Tề, biến nước này thành phên giậu của triều nhà Châu.
Võ Vương, Châu Công, Thiệu Công nghe qua những lời nói của Khương Thái Công, ai ai cũng cảm động rơi lệ.
Sáng sớm ngày hôm sau, Võ Vương, Châu Công, Thiệu Công, NamCung Thích, Võ Cát và một số văn võ đại thần khác cùng đưa Khương Thái Công đến Bá Thượng, cách Cảo Kinh hai mươi dặm về phía Đông. Tới đây mọi người mới gạt lệ chia tay nhau. Nào ngờ lần chia tay này đã trở thành lần chia tay cuối cùng giữa Thái Công và Võ Vương. Vì chỉ hai năm sau đó, Võ Vương bị bệnh qua đời.
Sau khi Võ Vương qua đời, dựa theo chế độ người con trưởng nam được lên nối ngôi đã quy định, Thành Vương, con trai lớn của Võ Vương được lên ngôi làm Thiên tử. Lúc bấy giờ triều đình nhà Châu mới vừa được xây dựng, các mặt đều đang chờ đợi củng cố và phát triển, tình hình rất căng thẳng.
Người em của Võ Vương là Châu Công sợ Thành Vương thiếu kinh nghiệm, làm hỏng quốc gia đại sự, nên không chú ý tới sự nghi kỵ bàn tán của các đại thần chung quanh, tự mình đứng ra thay thế Thành Vương để nhiếp chính.
Trước hành động trên của Châu Công, trong triều đình cũng như ngoài dân gian liền có nhiều dư luận phản ứng. Không ít người cho rằng Châu Công có tham vọng, muốn cướp lấy ngôi vị Thiên tử. Luồng dư luận trên truyền đi khắp các nơi, và truyền càng rộng thì càng có vẻ như chân thật, khiến các đại thần và chư hầu các nước cảm thấy không an tâm.
Châu Công là em của Võ Vương, còn Quản Thúc, Thái Thúc, Hoắc Thúc đang giữ nhiệm vụ giám sát Võ Canh cũng là em trai của Võ Vương. Ba người này thấy Châu công phong mình đi xa, trong khi chính ông lại xưng vương nhiếp chính, nắm hết đại quyền của triều đình, thì trong lòng rất bất mãn. Tất cả mọi việc xảy ra đều được người con trai của Trụ Vương là Võ Canh thấy rõ, nên cho rằng đây là một cơ hội để trả mối thù sát phụ, diệt quốc. Võ Canh không phải là một con người tầm thường. Trước đây khi Châu Võ Vương phong ông ta làm người hậu duệ của triều đình nhà Thương, thì ông ta từng cảm động đến rơi lệ, thề sẽ một dạ trung thành với triều đinh nhà Châu. Khi thấy Vô Vương phong ba người em trai của mình theo giám sát, ông ta biết người Châu không an tâm đối với mình. Do vậy, ngoài mặt ông ta tỏ ra rất ngoan ngoãn, nói gì tuân theo nấy. Hằng tháng ông ta đến vấn an Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc, báo cáo rõ tình hình nơi mình được phong chức và có nhiệm vụ cai quản, lại xin chỉ thị để thực hiện những việc làm sắp tới. Ngoài ra, ông ta thỉnh thoảng còn tặng cho ba vị giám sát nói trên nhiều vàng bạc, châu báu, và mỹ nữ, để mua chuộc họ.
Sau một thời gian lâu dài, ba vị giám sát đều cảm thấy Võ Canh là người rất tốt, nên mất đi sự cảnh giác lúc ban đầu. Thậm chí họ còn xem Võ Canh như một người bạn tri kỷ. Ngay đến những vấn đề bí mật nhất họ cũng nói cho Võ Canh nghe. Nhờ vậy mà Võ Canh biết ba vị giám sát này có lòng bất mãn đối với Châu Công, nhất là Quản Thúc lại là người căm ghét Châu Công nhất.
Quản Thúc bảo trước đây khi Võ Vương phong đất cho các chư hầu, thì Châu Công không đi nước Lỗ, mà để cho người con trai là Bá Cầm đi thay. Mục đích của Châu Công là muốn ở lại triều đình, để chờ cơ hội đoạt lấy đại quyền. Quản Thúc cũng cho rằng Châu Công phong đất của triều Ân Thương cũ cho mình, cũng như cho Thái Thúc, Hoắc Thúc, là sợ ba anh em ông ta cản trở không cho Châu Công thực hiện tham vọng đó. Quản Thúc cũng cho rằng sau khi Võ Vương chết nếu dựa vào chế độ nối ngôi do Văn Vương đã đặt ra lúc gởi gắm con côi với Khương Thái Công, thì ngôi vị nhà vua phải do Thành Vương, trưởng tử của Võ Vương kế vị. Nhất là Thành Vương hiện nay không phải còn nhỏ, mà hoàn toàn có năng lực để điều hành việc triều chính. Vậy mà Châu Công lại lấy cớ Thành Vương thiếu kinh nghiệm, tự mình xưng vương, rồi đứng ra nhiếp chính, có ý đồ cướp ngôi thiên tử. Hành động đó hoàn toàn trái ngược với di huấn của Văn Vương, chung sức tiêu diệt Châu Công, để trả quyền bính lại cho Thành Vương.
Thái thúc và Hoắc Thúc cũng tán thành ý kiến này của Quản Thúc.
Võ Canh bèn đem lời nói trên của Quản Thúc truyền đạt đến những người thân tín của ông ta, để những người này lại nhanh chóng truyền đạt đến những nước ở phía Đông. Nghe đâu Khương Thái Công biết được tin này, cũng có lòng hoài nghi đối với Châu Công.
Quản Thúc, Thái Thúc, và Hoắc Thúc thấy nhân tâm trong các nước chư hầu đều hoang mang, mọi người đều nguyền rủa Châu Công, thì trong lòng lấy làm đắc ý. Riêng Võ Canh bèn chụp lấy cơ hội này, liên hệ chặt chẽ với những bộ hạ cũ thời Ân Thương trước kia. Họ giả vờ yểm trợ cho Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc để thanh trừng chung quanh nhà vua, rồi từ đó phát động một cuộc phản loạn.
Riêng Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc cho rằng Võ Canh là người bạn tri kỷ của mình, muốn hiệp trợ với mình để thảo phạt Châu Công. Cho nên cả ba người bèn cấu kết với Võ Canh, giúp đỡ ông ta để thế lực cua ông ta ngày càng mạnh. Thậm chí, Quản Thúc còn đích thân chỉ huy quân đội để trợ uy cho Võ Canh. Nhờ vậy mà thế lực phản loạn của Võ Canh ngày một mạnh thêm lên. Hắn lại phái người đến các nước ở phía Đông, tiến hành hoạt động mang tính âm mưu. Do vậy mà có đến mười bảy nước ở phía Đông đã hưởng ứng cuộc phản loạn của Võ Canh, làm cho trong triều đình nhà Châu cũng như ngoài dân gian đều chấn động. Vùng đất phía Tây của người Châu trước kia cũng bị ảnh hưởng lây. Xem ra, cuộc biến loạn này có cơ sẽ lan rộng ra khắp toàn quốc.
Trong một cuộc hội họp khẩn cấp của triều đình nhà Châu, Châu Công cực lực chủ trương dùng vũ lực để trấn áp cuộc phản loạn. Nhưng trong vương thất có một số quý tộc tỏ ra do dự, không quyết định dứt khoát. Họ cho rằng người Di ở phía Đông từ trước tới nay không bao giờ yên ổn. Trong thời Ân Thương sự thống trị của triều đình không thực sự mở rộng tới đó. Cho nên tốt nhất là phái người đến đấy phủ dụ, để duy trì hiện trạng. Có người lại cho rằng Tây Châu vừa mới xây dựng, các mặt tài lực vật lực và nhân lực đều thiếu thốn, vậy nếu đưa quân đi chinh phạt xa thì có thể dẫn đến thất bại. Cũng có người tin theo lời đồn nhảm, hoài nghi Châu Công muốn mượn cớ Đông Chinh để mở rộng thế lực cửa mình, chuẩn bị cho việc soán đoạt đại quyền trong tương lai.
Châu Công biết, nếu để tình thế trước mắt tiếp tục diễn biến, thì sẽ tạo ra một cục diện hỗn loạn không thể khống chế được. Do vậy ông nên viết một phong mật thư gởi cho Khương Thái Công ở tận Sơn Đông xa xôi, rồi phái người tâm phúc tức tốc đi tới nước Tề để trao thư. Trong thư ông phân tích một cách sâu sắc tình thế trước mắt, và cũng nói thật lòng mình tại sao lại tự xưng vương, đứng ra nhiếp chính, mong Khương Thái Công nghĩ đến đại cuộc, giúp ông vượt qua cơn sóng gió, bảo vệ giang sơn đo Văn Vương, Võ Vương và Khương Thái Công đã phấn đấu suốt cả đời mới giành được. Trong thư này, Châu Công còn ủy quyền cho Khương Thái Công “Đông đến biển, Tây đến Hoàng Hà, Nam đến Mục Lăng, Bắc đến Vô Lệ, kể cả ngũ hầu cửu bá, đều có thể được quyền chinh phạt”.
Khương Thái Công đọc xong bức thư mật của Châu Công, vô cùng cảm động trước một tấm lòng vì đại nghĩa, trước thái độ quang minh lỗi lạc, tận trung báo quốc của Châu Công. Khương Thái Công nhận thức được rằng, sự hoài nghi đối với Châu Công của mình trước đây là sai lầm. Cùng một lúc đó, Khương Thái Công cũng nhận được một bức thư của người con gái là Ấp Khương, (vợ của Võ Vương). Trong thư Ấp Khương nói:
“Kể từ ngày Châu Công xưng vương nhiếp chánh cho tới nay, công cuộc trị quốc phát triển rất tốt. Châu Công lúc nào cũng sợ mình bỏ mất hiền nhân trong thiên hạ. Nếu có một hiền nhân tới xin gia nhập đội ngũ, cho dù Châu Công đang tắm, ông cũng dùng tay nắm mớ tóc đang gội còn ướt của mình bước ra tiếp kiến. Cho dù Châu Công đang ăn cơm, cũng buông ngay đũa xuống ra tiếp họ. Thậm chí “một lần tắm phải ba lần nắm tóc, một bữa cơm phải ba lần gác đũa”. Việc nhiếp chính của Châu Công hoàn toàn là vì lợi ích của quốc gia, còn đối với ngôi vị thiên tử của Thành Vương thì ông không hề có tham vọng chi cả. Có lần Thành Vương bệnh nặng sắp chết, Châu Công bèn viết một tờ sớ để khấn vái với trời đất, bằng lòng chết thay cho Thành Vương. Điều đó cho thấy Châu Công là người thành tâm thành ý bảo vệ Thành Vương. Mặc dù tuổi Thành Vương không còn nhỏ, nhưng đúng là thiếu kinh nghiệm trị quốc. Trước tình thế hết sức căng thẳng này, nếu Châu Công không ra mặt ủng hộ Thành Vương, cứu vãn tình hình, thì triều đình nhà Châu chắc chắn sẽ lâm nguy. Cho nên mong phụ thân dốc hết sức lực của mình để hiệp trợ cho Châu Công, bình định loạn lạc”.
Đứng trước tình hình vô cùng nguy cấp đó, Khương Thái Công đã quyết định dứt khoát, dốc hết lực lượng trong toàn quốc ra để nhanh chóng bình định những cuộc loạn lạc. Một mặt ông phái đại tướng Lữ Báo, Lữ Hổ dẫn một vạn tinh binh đi bình định những bang quốc đang nổi loạn như Từ, Yểm, mặt khác, tự mình dẫn hai vạn tinh binh tiến xuống phía Nam, hiệp trợ với Châu Công để bình định cuộc nổi loạn của Võ Canh và mười bảy nước chư hầu. ông viết rõ kế hoạch của mình vào một bức mật thư gửi đến cho Châu Công biết, và kiến nghị Châu Công nên xua quân Đông chinh để nhân cơ hội này triệt để chinh phục các bang quốc làm phản ở phía Nam, giúp cho giang sơn của triều Tây Châu vĩnh viễn được củng cố.
Châu Công nhận được thư cưa Khương Thái Công, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Ông bèn đem ý kiến của Châu Công trong bức thư truyền đạt lại cho các thành viên trong triều đình nhà Châu, khiến những quý tộc đang dao động sợ hãi này củng cố lại niềm tin. Châu Công chấp thuận ý kiến của Khương Thái Công, chính mình dẫn năm vạn đại binh mở cuộc Đông chinh. Đồng thời, ông lấy địa vị Thiên tử để công bố một bản “đại cáo” nhằm cổ xúy tinh thần của các tướng sĩ. Trên đường Đông chinh, khi đi ngang qua nước Sở, Châu Công đã thuyết phục người Sở không tham gia vào cuộc nổi loạn. Thế là hai cánh quân của Châu Công và Khương Thái Công đã liên kết nhau, tiến đánh những vùng nổi loạn, khiến uy tín của nhà Châu được củng cố.
Mặc dù Khương Thái Công tuổi đã cao, nhưng vẫn còn đầy đủ khí phách anh hùng. Ông đã bôn ba khắp trên chiến trường, nương tựa với thế lực của Châu Công, cùng nhau tiến quân tiểu trừ những cuộc nổi loạn ở phía Đông Nam. Trải qua ba năm chinh chiến gian khổ, rốt cục đã bình định được cuộc nổi loạn có quy mô to lớn nói trên. Cuộc chiến tranh trấn áp loạn lạc này, trước sau đã tiêu diệt được lực lượng phản loạn của năm chục nước chư hầu ở vùng Đông Nam. Quy mô của cuộc chiến tranh này còn to lớn hơn quy mô chiến tranh phạt Trụ của Võ Vương. Bọn đầu sỏ phản loạn là Võ Canh, Quản Thúc đều bị Châu Công xử chém. Riêng Thái Thúc, Hoắc Thúc thì bị lưu đày. Các nước ở vùng Quan Đông đã triệt để bị chinh phục. Trải qua cuộc chiến tranh này, Tây Châu mới thực sự chinh phục được Quan Đông, từ đó triều đình nhà Châu mới củng cố được sự thống trị trên khắp cả nước.
Sau khi bình định được cuộc nổi loạn, Khương Thái Công lại trở về đất phong cua mình là nước Tề, tiếp tục xây dựng lại quy mô nền kinh tế của đất nước. Trước tiên ông đặt ra sách lược “đại nông, đại công, đại thương”, để tạo điều kiện cho nông công thương phát triển, cũng như các nghề đánh cá và làm muối được nhiều thuận lợi hơn. Ông đã tổ chức nhưng người nông dân lại, đưa họ sống chung một nơi, để họ có thể hợp tác trong ngành công, khai khẩn đất hoang, phát triển sản xuất nông nghiệp, để lương thực càng ngày càng đầy đủ hơn. Ông cũng tổ chức những thợ thuyền lại, rồi cho họ sống chung một nơi để có điều kiện hợp tác với nhau, tạo ra được nhiều sản phẩm cần dùng cho bá tánh, giúp cho đời sống của nhân dân trong nước được đầy đủ. Ông cũng tổ chức những thương gia lại với nhau, rồi cho họ sống chung một nơi, mở chợ buôn bán, trao đổi hàng hóa, nên về các mặt tiền và hàng hóa mỗi lúc một phồn vinh hơn. Đối với nông nghiệp, ông thực hành phương châm đánh thuế một trên mười để giảm nhẹ gánh nặng cho nông dân và cổ xúy cho việc sản xuất nông nghiệp.
Khương Thái Công gọi ba công việc làm chủ yếu trên là “Tam bảo”. Ông cho rằng chỉ một mình nhà vua nắm quyền điều hành “Tam bảo”, chứ không thể giao cho ai quản lý cả. Nhờ vậy mà chưa đầy ba năm, tình hình kinh tế xã hội của nước Tề đã phát triển rõ rệt. Tin tức này truyền đến Cảo Kinh, Châu Công đang giữ vai trò nhiếp chánh vương nghe được hết sức vui mừng. Vì chỉ trong vòng ba năm ngắn ngủi, mà Thái Công có thể cai trị đất Tề và đưa đất nước này lên một tình trạng phồn vinh hưng thịnh như vậy, thì quả là tuyệt vời ông xúc động nói :
– Thái Công đúng là càng già càng giỏi, trong đời không ai bì kịp.
Trong hoàn cảnh đất nước được phát triển, Khương Thái Công đã cho tu sửa thành ấp, dạy người dân trong nước học tập Châu Lễ, và thu dụng nhân tài khắp bốn phương. Đối với những người có tài năng trong cửu tộc thuộc Đông Di, ông đều tập trung lại để sử dụng theo tài năng. Tất cả những người được sử dụng, ông đều tạo điều kiện cho họ phát huy hết sở trường của mình. Nhờ đó mà chỉ trong một thời gian ngắn, nước Tề đã trở thành nước cường nhất tại phía Đông. Về sau, khi Châu thất suy vi, các nước thời Xuân Thu Chiến Quốc tranh giành nhau một cách hỗn loạn thì hậu duệ của Khương Thái Công là Khương Tiểu Bạch, từng xưng bá trong quần hùng, chín lần huy động chư hầu để khuông phò nhà Châu, khiến nhà Châu kéo dài được trên bốn mươi năm. Khương Tiểu Bạch chính là vua Tề Hoàn Công rất nổi danh trong thời đó.
Với tài hoa trác tuyệt của mình, Khương Thái Công trước sau đã khuông phò cho ba đời vua của nhà Tây Châu, trở thành một vị anh hùng mang tính truyền kỳ. Suốt mấy nghìn năm qua, ông được nhân dân Trung Quốc tôn sùng và yêu quý, không hổ danh là một nhà chính trị, quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Ông cũng không hổ danh là bậc tỵ tổ trong các nhà mưu lược của nước Trung Quốc.